CHÍNH TRỊ-KINH TẾ
GIỮ GÌN LÂU DÀI THI HÀI BÁC HỒ LÀ NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ ĐẶC BIỆT, CÓ Ý NGHĨA VÔ CÙNG TO LỚN
13/10/2022 03:26:22

GIỮ GÌN LÂU DÀI THI HÀI BÁC HỒ LÀ NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ ĐẶC BIỆT, CÓ Ý NGHĨA VÔ CÙNG TO LỚN

Sáng 14.8, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu tại Hội nghị tổng kết 30 năm hợp tác trực tiếp giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa Ban Quản lý Lăng và Viện Nghiên cứu khoa học dược liệu và tinh dầu Liên bang Nga.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

 

Cùng dự có Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, tỉnh Nghệ An; cán bộ, chiến sĩ Ban Quản lý Lăng, Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Viện Nghiên cứu khoa học dược liệu và tinh dầu Liên bang Nga (VILAR); đại diện các bộ, ban, ngành Trung ương.

Theo Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1992, khi Hiệp định giữa Việt Nam và Liên Xô trước đó không còn hiệu lực, được sự đồng ý của Chính phủ hai nước, Ban Quản lý Lăng và VILAR đã chuyển sang cơ chế hợp tác trực tiếp trong thực hiện nhiệm vụ giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ban Quản lý Lăng trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, bảo quản thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm thuốc thường xuyên; làm thuốc lớn định kỳ; bảo đảm các điều kiện tổ chức cho đồng bào và khách quốc tế đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 30 năm qua, không gián đoạn. Năm 2004 đã pha chế thành công dung dịch đặc biệt tại Việt Nam. Năm 2018 đã hoàn thành dự án VN01 phục vụ cho nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm 2019, Hội đồng Khoa học Y tế cấp Nhà nước gồm chuyên gia của 2 Nhà nước Việt Nam và Liên bang Nga đánh giá kết quả giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: Thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh sau 50 năm đang được giữ gìn rất tốt, chưa phát hiện được sự thay đổi nào so với các số liệu trong biên bản kiểm tra thi hài của các Hội đồng trước đây.

Hai bên đã phối hợp thực hiện nhiều đề tài hợp tác nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó, các chuyên gia của Ban Quản lý Lăng đã độc lập phát triển hơn 50 đề tài khoa học, góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đơn vị. VILAR đã cử hơn 200 lượt chuyên gia sang công tác tại Ban Quản lý Lăng.

Từ năm 1992 đến nay, Ban Quản lý Lăng đã cử 116 lượt cán bộ đi học tập, nghiên cứu khoa học tại VILAR. Phối hợp với VILAR liên hệ các cơ sở giáo dục tại Liên bang Nga đào tạo đại học và sau đại học cho 17 cán bộ nghiên cứu, trong đó có 11 cán bộ bảo vệ thành công luận án tiến sỹ.

Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị Lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất. Người tượng trưng cho tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam, cho những giá trị cao đẹp nhất của tâm hồn, ý chí, nhân cách Việt Nam; là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cách mạng; là hình ảnh tuyệt đẹp về mối liên hệ thân thiết gắn bó giữa lãnh tụ với nhân dân.

Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu vĩnh biệt chúng ta, với tấm lòng kính yêu vô hạn, đời đời nhớ ơn Bác và thể theo nguyện vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng quyết nghị: “Chúng ta phải thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài và xây dựng Lăng của Người” để tên tuổi, hình ảnh, sự nghiệp vĩ đại và công lao to lớn của Người mãi khắc ghi vào con tim, khối óc của mỗi người dân đất Việt, mãi mãi là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết dân tộc, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.

Ngay sau khi Bác mất, thực hiện nhiệm vụ giữa hai Nhà nước, các chuyên gia y tế Liên Xô và Việt Nam bắt tay vào những công việc kỹ thuật đầu tiên, vô cùng quan trọng để giữ gìn lâu dài thi hài Bác và phục vụ tang lễ tại Hội trường Ba Đình. Trong suốt những năm tháng chiến tranh khốc liệt, các chuyên gia Liên Xô đã luôn sát cánh cùng cán bộ, chiến sỹ của quân đội Việt Nam, nỗ lực không nghỉ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt để gìn giữ tốt nhất thi hài, phù hợp với hình thể và những nét đặc trưng của cơ thể lúc Người còn sống.

Từ năm 1992, cơ chế hợp tác trực tiếp giữa Ban Quản lý Lăng với VILAR trong nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thiết lập. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp trong điều kiện tình hình cụ thể.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

 

Thủ tướng Chính phủ khẳng định, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành “Đài hoa vĩnh cửu”, nơi hội tụ tình cảm, sự kính trọng, niềm tin, sự tri ân của các thế hệ người Việt Nam và bạn bè quốc tế đối với Hồ Chủ tịch. Từ khi khánh thành và mở cửa đón khách đến nay, Lăng đã đón tiếp, phục vụ trên 60 triệu lượt người, trong đó có hơn 10 triệu lượt khách quốc tế của hầu hết các quốc gia và tổ chức quốc tế.

Những kết quả tích cực đó, những dấu mốc quan trọng đó là minh chứng sống động của sự hợp tác chặt chẽ, được kết tinh từ tình hữu nghị Việt Nam - Liên Xô trước đây và Việt Nam - Liên bang Nga ngày nay; là ý chí quyết tâm vươn lên từng bước làm chủ nhiệm vụ chính trị của tập thể lãnh đạo, cán bộ, chiến sỹ Ban Quản lý Lăng; đồng thời, còn là trách nhiệm, tình cảm của các chuyên gia Nga đối với Việt Nam và Hồ Chủ tịch muôn vàn kính yêu.

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam, Thủ tướng trân trọng cám ơn sự hợp tác, hỗ trợ vô tư, hiệu quả của Liên Xô trước đây, Liên bang Nga ngày nay, mà thường xuyên, trực tiếp là các nhà khoa học, chuyên gia y tế của VILAR đối với nhiệm vụ “đặc biệt thiêng liêng, cao cả” này.

Người đứng đầu Chính phủ ghi nhận và biểu dương sự cống hiến, đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam, các ban, bộ ngành ở Trung ương; các cơ quan chức năng, cấp ủy, chính quyền, nhân dân các địa phương và cán bộ, chiến sĩ, công chức, viên chức, người lao động Ban Quản lý Lăng, Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng đã phối hợp tổ chức thực hiện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vinh dự, thiêng liêng, cao cả mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Thủ tướng ghi nhận việc thời gian qua Ban Quản lý Lăng đã nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng kế hoạch tu bổ định kỳ, tiếp tục giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trạng thái tốt nhất, đủ điều kiện mở cửa trở lại công trình Lăng để đón tiếp, phục vụ Nhân dân, khách quốc tế đến viếng.

Theo Thủ tướng, trong giai đoạn phát triển mới, việc hợp tác giữa hai nước nói chung và giữa Ban Quản lý Lăng và VILAR có những thuận lợi và thời cơ mới, song phải đối mặt không ít khó khăn, thách thức.

Trong bối cảnh đó, Hội nghị tổng kết 30 năm hợp tác trực tiếp với Liên bang Nga trong thực hiện nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh là dịp quan trọng để đánh giá những việc đã làm được, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và đề ra những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới để tiếp tục phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhiệm vụ chính trị đặc biệt mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Thủ tướng cũng đề nghị quán triệt sâu sắc và tổ chức triển khai thực hiện Thông báo số 328-TB/TW ngày 19/4/2010 của Bộ Chính trị, Quyết định số 2341/QĐ-TTg ngày 22/12/2010 Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 122 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Đoàn 969 nhiệm kỳ 2021- 2025; nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy truyền thống “Trung hiếu vẹn toàn, đoàn kết hiệp đồng, tự lực, tự cường, chủ động sáng tạo”, phấn đấu đến năm 2030 làm chủ hoàn toàn và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Thủ tướng yêu cầu, Hội đồng Khoa học cấp Nhà nước về bảo quản, giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, các cơ sở nghiên cứu khoa học trong nước, các chuyên gia giỏi, đầu ngành trong lĩnh vực y sinh chủ động nêu cao tinh thần trách nhiệm, phối hợp, tham gia hợp tác với Ban Quản lý Lăng nghiên cứu giải quyết các vấn đề khó, cấp bách và tham mưu, đề xuất những chủ trương, giải pháp phù hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bộ Quốc phòng tiếp tục quan tâm, chỉ đạo trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, bác sĩ, chiến sỹ của Ban Quản lý Lăng để phục vụ cho nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Bác. Đồng thời, đề nghị các Bộ, ngành, cơ quan quan tâm hơn nữa về đời sống vật chất và tinh thần để giảm bớt khó khăn, tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ, công chức, viên chức và người lao động của Ban Quản lý Lăng yên tâm gắn bó với nhiệm vụ.

Đối với Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng yêu cầu luôn nêu cao ý chí tự lực, tự cường; phát huy nội lực, chủ động sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong hợp tác nghiên cứu khoa học; tiếp thu kiến thức và học tập kinh nghiệm quý trong giữ gìn, lâu dài thi hài Bác. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới; tăng cường đầu tư con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng Viện 69 trở thành Viện nghiên cứu chuyên ngành, chính quy, khoa học, hiện đại, hiệu quả.

 

Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

 

Thủ tướng yêu cầu làm tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ, công chức, viên chức và người lao động của đơn vị tuyệt đối trung thành, gắn bó với nhiệm vụ “vinh quang được đứng bên Người, canh cho Bác ngủ ngon giấc”; thực sự là những tấm gương tiêu biểu trong học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xứng đáng với truyền thống đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới và các phần thưởng cao quý được Đảng, Nhà nước trao tặng những năm qua.

Trong công tác phối hợp, hợp tác giữa Ban Quản lý Lăng và VILAR, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị tiếp tục nghiên cứu, hợp tác trong cải tiến công nghệ và quy trình làm thuốc theo hướng hiện đại hóa, nâng cao chất lượng, độ an toàn cho thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh; tiêu chuẩn hóa và đảm bảo khai thác được toàn bộ vật tư chuyên dùng tại Việt Nam.

Cùng với đó, đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu và thực nghiệm khoa học, tiến tới làm chủ hoàn toàn công nghệ y sinh để giữ gìn an toàn, lâu dài thi hài Bác. Tăng cường ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới trong nghiên cứu về ướp bảo quản; tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong công tác đào tạo cán bộ chuyên môn theo hướng nâng cao chất lượng, thiết thực, hiệu quả.

“Sự hợp tác bền chặt, hiệu quả giữa hai cơ quan trong những năm qua trên nền tảng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga, đã trở thành hình mẫu trong hợp tác giữa hai nước. Trên cơ sở đó, đề nghị hai phía tiếp tục nghiên cứu, mở rộng hình thức, nội dung hợp tác trong các lĩnh vực thế mạnh của hai bên như khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng...”, Thủ tướng chỉ rõ.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định, giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát huy ý nghĩa chính trị văn hóa của Công trình Lăng là nhiệm vụ chính trị đặc biệt, có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thủ tướng mong muốn và tin tưởng, phát huy truyền thống hợp tác tốt đẹp giữa hai đất nước, hai dân tộc, hai cơ quan và những kết quả tích cực đạt được trong những năm qua, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và VILAR sẽ không ngừng nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, chủ động, sáng tạo, phối hợp hiệu quả, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vinh dự, thiêng liêng và cao quý này.

Tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ đã trao tăng Huân chương Lao động hạng Ba cho Viện Nghiên cứu khoa học dược liệu, tinh dầu Liên bang Nga; Huân chương Hữu nghị cho Trưởng đại diện Thương mại Liên bang Nga tại Việt Nam và Bằng khen cho 12 tập thể, cá nhân thuộc Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thành tích xuất sắc trong 30 năm hợp tác trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đến đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

 

* Sáng cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng Đoàn các nhà khoa học, lãnh đạo VILAR do Giám đốc, Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga Sidelnikov Nikolai Ivanovich làm Trưởng đoàn sang Việt Nam dự Hội nghị tổng kết 30 năm hợp tác trực tiếp giữa Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh với Viện vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu bày tỏ lòng biết ơn vô hạn, lòng thành kính tưởng nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hòa bình, độc lập, thống nhất và tinh thần quốc tế cao cả.

* Trước đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính có buổi tiếp Đoàn các nhà khoa học, lãnh đạo Viện Nghiên cứu khoa học dược liệu và tinh dầu Liên bang Nga.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Giám đốc Viện Nghiên cứu khoa học dược liệu và tinh dầu Liên bang Nga, Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga Sidelnikov Nikolai Ivanovich. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

 

Tại buổi tiếp, thay mặt Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam, Thủ tướng bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới phía Liên bang Nga và các nhà khoa học Liên bang Nga đã phối hợp, giúp đỡ, hỗ trợ, tư vấn với Chính phủ Việt Nam, trực tiếp là Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng, đặc biệt về giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thủ tướng đề nghị và Giám đốc, Viện sĩ Sidelnikov Nikolai Ivanovich khẳng định các nhà khoa học, các chuyên gia y tế của Liên bang Nga sẽ tiếp tục phối hợp hiệu quả, hợp tác chặt chẽ với Ban Quản lý Lăng trong việc giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh với trách nhiệm cao nhất, góp phần không ngừng tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống, lâu đời giữa hai đất nước, hai dân tộc, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga.

Thủ tướng cho biết Việt Nam là nước nhiệt đới, có tiềm năng rất lớn về các loại dược liệu; đề nghị Viện Nghiên cứu khoa học dược liệu và tinh dầu Liên bang Nga mở rộng hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, các cơ sở nghiên cứu của Việt Nam về dược liệu, tinh dầu và các lĩnh vực nghiên cứu khác mà Viện có thế mạnh; thúc đẩy các cơ chế hợp tác chặt chẽ nhưng linh hoạt, hiệu quả, phù hợp tình hình, hai bên cùng có lợi, góp phần giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp dược liệu và dược phẩm, nâng cao năng lực y tế, bảo vệ sức khỏe Nhân dân.

Giám đốc, Viện sĩ Sidelnikov Nikolai Ivanovich nhất trí cao với đề xuất này của Thủ tướng, cho rằng đây là hướng hợp tác rất triển vọng và sẽ trao đổi cụ thể với các cơ quan của Việt Nam để triển khai trong thời gian tới.

 

Theo TTXVN
CHỦ TỊCH NƯỚC: “PHÁT HUY NGUỒN LỰC CỦA NHÂN DÂN ĐỂ XÂY DỰNG TỔ QUỐC”

Theo Chủ tịch nước, việc quán triệt và thực hiện nhất quán đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, giữ nước từ sớm, từ xa.

Sáng 16.8, tại TP Hồ Chí Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Chỉ đạo xây dựng "Đề án Tổng kết Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chủ trì Hội thảo khoa học "Lý luận - thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới".

 

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu

 

Dự hội thảo có nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, nguyên Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo; Đại tướng Phan Văn Giang, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo; Đại tướng Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Nguyễn Văn Nên, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh.

Cùng dự có các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo, nguyên lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương; các tướng lĩnh, sĩ quan, lãnh đạo chỉ huy các cơ quan, đơn vị, học viện, nhà trường, các nhà khoa học.

Đây là lần thứ hai Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án tổ chức hội thảo "Lý luận - Thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", sau hội thảo lần thứ nhất được tổ chức tại Hải Phòng ngày 20.7 vừa qua. Đây là những cơ sở rất quan trọng để Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập xây dựng Đề án Tổng kết NQ TƯ 8 (khóa XI) nghiên cứu, xây dựng Báo cáo và các văn bản liên quan trình Bộ Chính trị và Trung ương.

Phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng làm cơ sở để lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu

 

Đánh giá cao các đại biểu đều phát biểu rất tâm huyết, thẳng thắn, nêu nhiều thông tin, kiến thức sâu sắc, có giá trị khoa học, Chủ tịch nước cho rằng, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động rất phức tạp, khó dự báo, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu đạt nhiều kết quả tích cực. Thành tựu cơ bản, bao trùm là đã luôn giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng XHCN, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Coi trọng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thống nhất với các đại biểu tại hội thảo về quan điểm cơ bản trong lý luận và thực tiễn về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chủ tịch nước nhấn mạnh phải luôn giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Tổ quốc.

Cùng với đó, cần phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chủ tịch nước khẳng định xây dựng "thế trận lòng dân" trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững chắc được coi là giải pháp nền tảng đặc biệt quan trọng, là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến lợi ích cốt lõi quốc gia - dân tộc, là vấn đề hệ trọng cấp thiết để bảo vệ Tổ quốc hiện nay, sinh mệnh và sự sống còn của Đảng, Nhà nước và Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Chủ tịch nước nhắc lại tổng kết lý luận - thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ rõ: "Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là quy luật phát triển của cách mạng nước ta". Từ bài học đó, Chủ tịch nước cho rằng, cần kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, trong đó nội lực là nhân tố quyết định; đồng thời, tranh thủ tối đa các điều kiện thuận lợi và nguồn lực từ bên ngoài. Trong đó, nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Đây là quan điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung của các quan điểm khác về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới.

Theo Chủ tịch nước, việc quán triệt và thực hiện nhất quán đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, giữ nước từ sớm, từ xa. Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN; tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.

Chủ tịch nước lưu ý, cần phát huy kết quả đã đạt được trong 10 năm thực hiện thực hiện NQ TƯ 8 (khóa XI); đồng thời nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước để tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ, hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc và các Chiến lược có liên quan trong thời gian tới. Do đó, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân là tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là các cấp, các ngành đang triển khai tổng kết 10 năm thực hiện NQ TƯ 8 (khóa XI).

 

Theo TTXVN
KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (19/8/1945 - 19/8/2022) VÀ NGÀY QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (2/9/1945 - 2/9/2022)

Cách đây 77 năm, vào tháng 8-1945, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân vùng lên đập tan xiềng xích của chế độ thực dân phong kiến và giành lại nền độc lập cho dân tộc. Từ cuộc cách mạng vĩ đại đó, ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã đem lại cuộc đời mới tươi sáng cho nhân dân Việt Nam.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.

Hào khí những ngày Thu lịch sử

Chiến thắng của phe Đồng minh trước phe phát xít trong năm 1945 đã tạo thời cơ để Việt Nam giành độc lập. Tuy nhiên, cần có sự chuẩn bị từ trước thì mới có đủ lực lượng để đón nhận thời cơ này. Trong 15 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1930-1945), Đảng ta đã tích cực chuẩn bị, xây dựng lực lượng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động giác ngộ cách mạng trong nhân dân.

Đặc biệt, tháng 5-1941, Đảng ta đã thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) nhằm liên hiệp sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tháng 10-1944, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Ðồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”(1).

Bởi vậy, ngày 15-4-1945, Đảng ta hợp nhất Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Tháng 6-1945, Đảng ta quyết định thành lập Khu giải phóng Việt Bắc với vị thế căn cứ địa cách mạng của cả nước.

Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Đêm ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1 chỉ rõ quân Nhật đã tan rã trên khắp mặt trận chính là cơ hội cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà… Chúng ta phải hành động nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!… Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”.

Ngay sau khi nước Nhật đầu hàng Đồng minh vào ngày 15-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào trong hai ngày 16 và 17-8-1945 đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa (18-8-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2).

Với 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lật nhào sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân đế quốc và phong kiến. Trong đó, Hà Nội, Sài Gòn, Huế là ba vùng trọng điểm quyết định sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Sáng ngày 19-8-1945, hàng chục vạn nhân dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận kéo về quảng trường Nhà hát Lớn và sau đó chiếm Phủ khâm sứ Bắc kỳ, Trại lính Bảo an của Nhật và các cơ sở của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Trước sức mạnh của cách mạng, Nhật phải công nhận Việt Minh là đại diện của Việt Nam. Việc này được xác nhận bởi bức điện văn của Đại sứ Nhật gửi về Tokyo: “Chiều ngày 19, Đại sứ đã “được mời” đến dự cuộc gặp với các lãnh đạo Việt Minh và đã tham gia bàn bạc với những người đó, được coi như là các nhà chức trách chính thức”(3). Trước đó, Khâm sai triều đình Huế, Phan Kế Toại ở Bắc kỳ cũng đã ủng hộ Việt Minh. Vào ngày 17-8-1945, ông đã dặn quan, lính của mình tuyệt đối không được nổ súng và phải mở cửa ngay khi quân cách mạng tiến vào. Nhờ đó, Việt Minh cướp chính quyền không phải nổ súng và đổ máu.

Ở Sài Gòn, sau cuộc thương lượng ngày 19-8-1945 tại Hà Nội với Việt Minh thì vào ngày 22-8-1945, Bộ chỉ huy quân đội Nhật chỉ thị cho Thống chế Terauchi tuyên bố quân Nhật không can thiệp nếu Việt Minh giành chính quyền. Bên cạnh đó, đến tháng 8-1945, tại Sài Gòn, qua đồng chí Huỳnh Văn Vàng, đảng viên được cài vào trong tổ chức cảnh sát nên Đảng nắm được phần lớn cảnh sát ở thành phố. Do đó, ngày 25-8-1945, Việt Minh đã giành được chính quyền tại Sài Gòn.

Tại Huế, sau khi đảo chính Pháp, Nhật có đến 4.500 quân thiện chiến, vũ khí hậu cần đầy đủ do tướng Yokoyama Masayuki chỉ huy sẵn sàng đàn áp cách mạng. Tuy nhiên, ngày 23-8-1945, chính quyền ở Huế đã về tay nhân dân. Bởi lẽ, tại thời điểm đó, Việt Minh ở Huế đã lôi kéo được một số nhân sĩ yêu nước của “Hội Tân Việt Nam” (một tổ chức thân Nhật), lực lượng thanh niên Phan Anh, lính khố vàng, lính bảo an cùng hàng chục vạn nhân dân để tiến tới tổng khởi nghĩa. Do đó, trước sức mạnh của quần chúng, vua Bảo Đại giải tán nội các Trần Trọng Kim vào ngày 25-8-1945 và chấp nhận thoái vị vào ngày 30-8-1945. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tinh thần Cách mạng Tháng Tám bất diệt!

Sau này, nói về mục đích của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mục đích Cách mạng Tháng Tám là gì? Là giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 nước ta tuyên bố độc lập. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tổng tuyển cử tự do được tổ chức, nhân dân toàn quốc ta đã bầu ra Quốc hội.

Quốc hội thông qua Hiến pháp và bầu ra Chính phủ Trung ương. Chính quyền địa phương từ xã đến tỉnh đều do nhân dân cử ra. Thế là lúc đó chúng ta đã bắt đầu thực hiện thống nhất, độc lập và dân chủ”(4).

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói rõ về ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Đó là thắng lợi đầu tiên của Chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến”(5). Người nhận định: “Thắng lợi ấy đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội”(6). Do đó, Người khẳng định: “Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”(7).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập”(8).

Trong cuốn “Thế giới bàn về Việt Nam”, học giả nước Anh Thomas Hodgkin đánh giá, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một sự kiện “quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga”(9). Thomas Hodgkin đã viết rằng: “Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời được 15 năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa…

Như vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”(10). Bên cạnh đó, Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945) với tuyên bố “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” cũng báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Giáo sư người Nhật Bản Singo Sibata đã nhấn mạnh, Bản Tuyên ngôn Độc lập đã “phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc”.

Kế thừa và phát huy tinh thần của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, chúng ta luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo Đảng; luôn đoàn kết, chung sức, đồng lòng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tiếp bước con đường cách mạng vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và dân tộc ta đã lựa chọn./.

 

Trích: Nguyễn Văn Toàn (bienphong.com.vn)
CÁCH MẠNG THÁNG 8 CUỘC HỒI SINH VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, “là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”, đã đập tan xiềng xích đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, đánh đuổi bọn quân phiệt Nhật Bản ra khỏi đất nước, lật đổ chế độ phong kiến mấy mươi thế kỷ, đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám cũng chính là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm nên cuộc hồi sinh của nền độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc. Đó là một nền độc lập, tự chủ vô cùng quý giá của dân tộc giành được sau đêm trường nô lệ đau thương và tủi nhục. Khát vọng độc lập, tự do truyền cảm hứng, đến cả Bảo Đại - vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến, khi ông nói rằng: “dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”. Nếu kể từ ngày 1-9-1858 khi thực dân Pháp nổ súng mở đầu cuộc xâm lược tại Đà Nẵng, đến ngày 2-9-1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, đất nước ta đã trải qua 87 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là quãng thời gian nước ta bị nước ngoài đô hộ dài nhất kể từ năm 938, khi Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, khôi phục nền độc lập. Nước đã mất, tên nước không còn trên bản đồ thế giới, lẫn vào địa danh “xứ Đông Dương thuộc Pháp”. Tổ quốc bị chia thành ba miền với ba chế độ chính trị khác nhau để thực dân dễ bề cai trị. Những vị vua yêu nước, có ý thức tự cường thì bị đàn áp, lưu đày; triều đình phong kiến còn lại chỉ như thứ bù nhìn. Các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh đòi độc lập, quyền tự chủ cho đất nước đều bị dìm trong bể máu. Người dân một cổ hai tròng, sống đời nô lệ, đói rách lầm than, oằn lưng, tối mặt với sưu cao, thuế nặng, lao dịch, phu phen. Nhà chí sĩ Phan Bội Châu, đã “bầm gan, tím ruột ” mà gọi thời kỳ đó là “Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than”. Chính hoàn cảnh lịch sử ấy đã khẳng định tầm vóc vĩ đại, giá trị vô cùng to lớn của cuộc hồi sinh nền độc lập, tự do của dân tộc mà Cách mạng Tháng Tám đã mang lại.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã trả lại cho nước Việt Nam nền tự do, độc lập mà dân tộc ta có quyền được hưởng, mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”, lập nên những chiến công vĩ đại, lừng lẫy năm châu. Không chỉ đối với Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám còn mở ra thời cơ, điều kiện cho các nước láng giềng Lào, Cam-pu-chia đấu tranh giành lấy độc lập, tự do và khẳng định con đường phát triển tự chủ, tự cường cho dân tộc mình.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc hồi sinh của tinh thần yêu nước quật khởi gắn với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, hàng loạt cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh cứu nước đã nổ ra trên khắp mọi miền của đất nước, với tinh thần “Đầu dám thay đầu, chân nối chân!”. Đó là cuộc kháng Pháp của Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương..., những cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... các phong trào Cần Vương, Đông Du... Nhiều tướng lĩnh, lãnh tụ khởi nghĩa đã chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, hy sinh lẫm liệt trên chiến trường hay ngã xuống trong ngục tù, trên máy chém. Đó là những phong trào đấu tranh, những cuộc khởi nghĩa xuất phát từ tinh thần yêu nước bất khuất, khát vọng cứu nước, cứu dân cháy bỏng. Tiếc rằng, tất cả các cuộc đấu tranh kháng Pháp đó đã không kết hợp được tinh thần yêu nước với sức mạnh của nhân dân, của đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, mỗi phong trào, mỗi cuộc khởi nghĩa trở thành một ốc đảo trong vòng vây sức mạnh của kẻ thù, nên thất bại hầu như đã được báo trước.

Chỉ có dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám mới làm sống lại sức mạnh như “sức nước” của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi, tinh thần Hội nghị Diên Hồng trong cuộc chiến chống quân Nguyên dưới triều nhà Trần. Đảng đã tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất , đoàn kết toàn dân, thực hiện chính sách “tôn giáo tự do, lương giáo đoàn kết”, các dân tộc bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau, biến tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc thành sức mạnh dời non, lấp biển, đấu tranh vì mục tiêu độc lập của đất nước, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Chính vì sức mạnh ấy mà chỉ với 5.000 đảng viên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả dân tộc làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, tạo ra bước ngoặt to lớn trong lịch sử của dân tộc. Sức mạnh đó sẽ còn được phát huy, trở thành một động lực mạnh mẽ cho những chiến công vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ biên giới, lãnh thổ đất nước, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm nên cuộc hồi sinh lớn của nhân dân, của con người Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta được hoàn toàn giải phóng: Đã phá tan cái xiềng xích nô lệ thực dân, đã đập đổ cái chế độ thối nát của vua quan phong kiến, đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó dân ta làm chủ nước ta”(1). Từ kiếp sống nô lệ, tủi nhục, lầm than, trong cảnh “Non sông thẹn với nước nhà, Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu!”, Cách mạng Tháng Tám không chỉ hồi sinh số phận vốn có của nhân dân trong lịch sử của nhà nước Việt Nam độc lập, mà còn đưa nhân dân lên vị thế chủ nhân thật sự của đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, được hưởng các quyền con người, quyền tự do, công bằng như bất kỳ một dân tộc văn minh, tiến bộ nào khác. Từ cuộc hồi sinh Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam cùng đất nước mình đã bước lên vũ đài chính trị thế giới với một vị thế mới đầy tự hào, vẻ vang. Chỉ bốn tháng sau ngày Cách mạng thắng lợi, lần đầu tiên, nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình, cầm lá phiếu để tự tay bầu ra Quốc hội của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cử ra chính quyền từ cấp xã đến Trung ương. Từ đây, trên đất nước Việt Nam, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2).

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là khởi đầu cho cuộc hồi sinh của văn hóa dân tộc. Theo lẽ tự nhiên, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Để thống trị dân tộc Việt Nam, thực dân Pháp thực hiện các chính sách ngu dân, ru ngủ thanh niên, cản trở dẫn đến thủ tiêu các giá trị văn hóa truyền thống, khuyến khích truyền bá các giá trị văn hóa mất gốc, ngoại lai. Đó chính là âm mưu để chặn đường phát triển của dân tộc. Chúng xây nhà tù nhiều hơn trường học, thẳng tay đàn áp khốc liệt bất cứ hành vi hay người dân nào có biểu hiện yêu nước, chống áp bức, bảo vệ nhân dân và nền văn hóa dân tộc. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn, nhà thổ để làm suy yếu giống nòi, mai một các truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuyệt đại bộ phận dân số mù chữ, không được học hành. Báo chí yêu nước bị cấm, người làm báo yêu nước bị bỏ tù, báo chí công dân bị kiểm duyệt gắt gao... Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã khởi đầu cho công cuộc khôi phục “nền văn hiến đã lâu”, hồi sinh những “phong tục”, giá trị bản sắc, xây dựng và phát triển nền văn hóa của đất nước theo phương châm “dân tộc, khoa học, đại chúng”. Nhà nước dân chủ nhân dân đặt ra nhiệm vụ “diệt giặc dốt”, ngang hàng với “diệt giặc đói”, mở mang giáo dục, nâng cao dân trí. Nền văn học - nghệ thuật ra đời trong đấu tranh cách mạng không ngừng trưởng thành, kết hợp những tinh hoa từ trong nguồn mạch dân tộc với những giá trị của thời đại, phản ánh thực tiễn cách mạng phong phú, đa dạng, vì cuộc sống của con người và mục đích nhân văn của chế độ. Hệ thống báo chí, truyền thông của đất nước phát triển nhanh chóng, bắt nhịp với những tiến bộ khoa học - công nghệ của nhân loại. Từ cuộc hồi sinh bởi Cách mạng Tháng Tám, một nền văn hóa Việt Nam không chỉ khẳng định những thành tựu phát triển to lớn, ngày càng “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, mà còn không ngừng giao lưu, hội nhập với các dân tộc bạn bè, tỏa sáng trên trường quốc tế.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó đặc biệt là đường lối của Đảng về dân tộc. Theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, song muốn giữ vững được độc lập dân tộc, mang lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta trước sau như một, đề ra và thực hiện nhất quán đường lối: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo đường lối của Đảng, toàn bộ mục tiêu của cách mạng, lý tưởng phấn đấu của Đảng là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và chủ nghĩa xã hội là con đường, điều kiện để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó. Để đạt được mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã thực hiện chính sách đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, liên kết tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, không phân biệt tôn giáo, tộc người, dưới ngọn cờ cách mạng, đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Đã 77 năm trôi qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa cùng những bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục tỏa sáng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đó là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc, mở ra một thời đại phát triển rực rỡ của đất nước với những chiến công oanh liệt như chiến thắng Điện Biên Phủ, đại thắng mùa xuân 1975, với những thành tựu có tính lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, tạo dựng nên “cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín” chưa bao giờ có của Tổ quốc Việt Nam hôm nay.

GS, TS TẠ NGỌC TẤN

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

KHẲNG ĐỊNH Ý NGHĨA, VAI TRÒ TIÊN PHONG CỦA ĐỐI NGOẠI VÀ NGOẠI GIAO THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH

Chiều 22.8, Bộ Ngoại giao tổ chức Hội nghị nghiên cứu, học tập nội dung cuốn sách và một số bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”.

Diễn giả là Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đồng chủ trì Hội nghị.

 

Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu

  

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, có nội dung rất rộng lớn, phong phú. Bộ trưởng trân trọng cảm ơn Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng dành thời gian chia sẻ về nội dung đặc biệt quan trọng này qua cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đối với công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên làm công tác đối ngoại nói chung và ngành ngoại giao nói riêng.

Bộ trưởng cho biết, những chỉ đạo của Tổng Bí thư trong cuốn sách và các bài viết cũng như tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc (tháng 12/2021) đã được Bộ Ngoại giao tổ chức học tập nghiêm túc, trở thành kim chỉ nam để triển khai trên thực tiễn các nhiệm vụ đối ngoại trong bối cảnh thế giới có những biến động rất phức tạp và khó lường thời gian qua. Bộ trưởng yêu cầu cán bộ ngoại giao nghiêm túc học tập, quán triệt để nắm vững lý luận và thực tiễn, giữ vững bản lĩnh, niềm tin và kiên định lý tưởng, mục tiêu chủ nghĩa xã hội, vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong thực tiễn đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước.

Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng đã trình bày rất toàn diện, phân tích sâu sắc những nội dung, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong cuốn sách và bài viết của Tổng Bí thư; nhấn mạnh, cuốn sách là kết tinh trí tuệ, kế thừa tư tưởng qua nhiều nhiệm kỳ của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; đặc biệt thể hiện tư duy và tầm nhìn chiến lược của người đứng đầu Đảng ta.

Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng cũng dành thời gian chia sẻ sâu rộng về các vấn đề lớn đặt ra: Về chủ nghĩa xã hội và việc Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, trong đó nhận định rõ bối cảnh tình hình bên ngoài, cơ hội và thách thức đối với đất nước, xác định nền tảng và cách tiếp cận mới về tầm nhìn, mục tiêu phát triển của đất nước sau 35 năm đổi mới...

 

Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng làm rõ những nội dung cơ bản cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 

Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh, hai nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam là sự lãnh đạo của Đảng và việc lấy dân làm gốc, Nhân dân là trung tâm, là chủ thể, là cội nguồn sức mạnh của công cuộc Đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí cũng chỉ ra 3 trụ cột quan trọng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đối với công tác đối ngoại và ngành ngoại giao, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng khẳng định ý nghĩa, vai trò tiên phong của đối ngoại; nhấn mạnh các đặc trưng của trường phái đối ngoại và ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh: Mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường. Đồng chí cũng dành thời gian trao đổi, giải đáp các câu hỏi của cán bộ, Đảng viên trong ngành ngoại giao về việc xác định cách tiếp cận phù hợp, hài hòa giữa đảm bảo độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng; nỗ lực quảng bá mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với các đối tác, bạn bè trong cộng đồng quốc tế; kết hợp nhuần nhuyễn giữa mục tiêu duy trì môi trường hòa bình, ổn định và bảo vệ chủ quyền, biên giới quốc gia…

Đây là một trong những dịp học tập chính trị lớn trong năm của Bộ Ngoại giao, thu hút hơn 300 cán bộ, Đảng viên trong Bộ tham gia nghiêm túc, đầy đủ và trao đổi tích cực tại Hội nghị. Theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn, sau Hội nghị, các cán bộ chủ chốt và Đảng viên trong Bộ sẽ tổ chức thu hoạch, phổ biến rộng rãi đến cán bộ, Đảng viên trong toàn Bộ về nội dung của hoạt động sinh hoạt chính trị quan trọng này.

 

Theo TTXVN
NGUYỄN THỊ ĐỊNH – NỮ TƯỚNG HUYỀN THOẠI CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.

 

Nữ tướng Nguyễn Thị Định với tên tuổi gắn liền cùng sự ra đời và trưởng thành của Đội quân tóc dài Bến Tre. Ảnh: Tư liệu TTXVN

 

Nữ tướng Nguyễn Thị Định mất ngày này cách đây 30 năm - ngày 26.8.1992.

Vị tướng huyền thoại của “Đội quân tóc dài”

Nữ tướng Nguyễn Thị Định (người dân vẫn trìu mến gọi Cô Ba Định) sinh ngày 15/2/1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bà sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng.

Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, Nguyễn Thị Định đảm nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và tham gia vận động quần chúng đấu tranh. Hai năm sau bà được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích - Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Nhưng không lâu sau đó, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Gửi con còn nhỏ cho mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia hoạt động cách mạng tại tỉnh nhà.

Năm 1940, đến lượt bà bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8.1945.

Tuy ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn là người phụ nữ đầu tiên của Đoàn cán bộ Nam Bộ vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Bà cũng là người duy nhất trong phái đoàn 4 người trở về Bến Tre với chiếc thuyền chở đầy vũ khí. Vượt qua mạng lưới bố phòng dày đặc của địch, con tàu “không số” chở 12 tấn vũ khí đã cập bến an toàn, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ; trở thành một trong những người góp phần quan trọng cho việc hình thành “Đường Hồ Chí Minh trên biển” ngay từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển rực rỡ sau này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến Tre là một trong những chiến trường ác liệt, là nơi Mỹ - Ngụy thí điểm áp dụng các chiến thuật và thủ đoạn quân sự mới với chiêu bài "tố cộng, diệt cộng", đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, biến cả miền Nam thành nhà tù, trại tập trung dưới cái tên "ấp chiến lược".

Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời và đến với tỉnh Bến Tre như “nắng hạn gặp mưa rào”. Theo đó, Đảng chủ trương sử dụng vũ trang để hỗ trợ đấu tranh chính trị, điều này cũng đáp ứng được nhu cầu tình thế và sự mong ước của Đảng bộ và nhân dân xứ dừa. Nguyễn Thị Định sau khi được quán triệt Nghị quyết số 15, trở về cùng lãnh đạo Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị cán bộ vào đêm 2.1.1960, tại Mỏ Cày. Tại đây, bà và các đồng chí trong Tỉnh ủy bàn kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm.

Do lực lượng quân địch ở Bến Tre đông và ngoan cố, lại được sự chi viện của chính quyền bù nhìn Sài Gòn, cuộc nổi dậy bước đầu gặp rất nhiều khó khăn. Nguyễn Thị Định đã dũng cảm, mưu trí, sáng tạo ra những cách đánh phù hợp với tình hình. Quân ta thua thiệt về súng đạn, thì kết hợp thêm vũ khí thô sơ, giáo mác, gậy gộc. Khi thua thiệt về quân số thì hoạt động nghi binh, giả làm bộ đội chủ lực để gây hoang mang cho địch… Bằng sự khéo léo, tài tình, bà cùng các Tỉnh ủy viên đã lãnh đạo cuộc nổi dậy Bến Tre thành công ngoài mong đợi, tạo tiếng vang và hiệu ứng lan tỏa khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam.

Khả năng lãnh đạo của bà còn được thể hiện qua việc gắn kết các tầng lớp xã hội, bà truyền lửa, tạo ra sức mạnh vô hình cho ngay cả những lực lượng vốn gọi là chân yếu, tay mềm.

Lần đầu tiên, hơn năm nghìn phụ nữ gồm cả thanh niên, bà già, trẻ em của xã Phước Hiệp, Bình Khánh, Thành Thới… họp thành một đoàn lớn, đầu đội khăn tang, mặc áo rách bồng con kéo vào quận Mỏ Cày, đòi chấm dứt khủng bố, trừng trị bọn ác ôn ở Phước Hiệp. Giằng co với địch suốt mấy ngày đêm, mỗi ngày lại có thêm lực lượng đến chi viện, khí thế của ta càng sôi sục.

Cuối cùng, tên quận trưởng đã phải chịu rút hết lính khỏi xã Phước Hiệp. Từ đây, một hình thức đấu tranh mới của Bến Tre ra đời, độc đáo và hiệu quả, khiến bè lũ quân địch khiếp sợ và gọi với cái tên “Đội quân tóc dài”.

Từ chiếc nôi Đồng Khởi, “Đội quân tóc dài” đã phát triển lan rộng toàn miền Nam. Sự ra đời của “Đội quân tóc dài” đã làm cho sức mạnh của phong trào phụ nữ miền Nam được nhân lên gấp nhiều lần. Trong đấu tranh chính trị, các chị em làm tốt công tác địch vận, vận động chồng, con, em mình bỏ ngũ, giải thích chính nghĩa cho binh lính, làm cho họ hạ súng, bỏ đồn, cao hơn là giác ngộ cách mạng, xây dựng tổ chức ngay trong lòng địch…

Từ đó, "Đội quân tóc dài" đã phát triển rộng khắp và đóng một vai trò quan trọng, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng miền Nam, kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước; làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người Phụ nữ Việt Nam.

Nữ tướng trong lòng dân

Sau cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, bà được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1961, bà là Khu ủy viên Khu 8. Năm 1964, bà được bầu là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam.

Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt ấy, rừng miền Đông vẫn thấy nữ tướng không mặc quân phục, không đeo quân hàm khi ra trận nhưng tài chỉ huy, lòng trách nhiệm, sự dũng cảm, sự thấu đáo của bà đã góp phần xoay chuyển tình hình từ bị động chuyển sang phòng ngự và chủ động tấn công.

Năm 1965, bà Nguyễn Thị Định được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam, và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm 1975.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh tự hào nói về nữ tướng Nguyễn Thị Định "Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy". Ảnh tư liệu

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào nói về nữ tướng Nguyễn Thị Định: “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.

Sau khi miền Nam được giải phóng, non sông thống nhất, bà chuyển về Thủ đô Hà Nội công tác, đảm đương nhiều vị trí, chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Tháng 6.1987, Nguyễn Thị Định được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, bà cũng là nữ Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trên những cương vị mới, bà tiếp tục thể hiện bản lĩnh của một người lãnh đạo uy tín, quan tâm, chỉ đạo, xử lý công việc kịp thời trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Về ngoại giao, với sự khéo léo, mềm mỏng, nhưng đầy bản lĩnh, bà được nhiều bạn bè, cũng như người dân trên thế giới biết đến, ngưỡng mộ. Với bạn bè thế giới, bà là biểu tượng của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, đoàn kết, hữu nghị của các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Bà từng được Liên đoàn Phụ nữ dân chủ thế giới bầu vào cương vị Phó Chủ tịch Liên đoàn. Bài phát biểu của đại diện phụ nữ Anbani có đoạn: “Chúng tôi vô cùng tự hào có người bạn chiến đấu là chị Nguyễn Thị Định. Chị đã thay mặt cho phụ nữ chúng ta giương cao chủ nghĩa anh hùng cao cả và cổ vũ cho hàng triệu phụ nữ yêu tự do, vì hòa bình và tiến bộ xã hội”.

Có thể nói, từ trong muôn vàn gian khổ, bao lần vào sinh ra tử, trải qua 2 cuộc kháng chiến, cho đến khi giữ cương vị cao trong bộ máy Nhà nước, bà Nguyễn Thị Định luôn giữ phẩm chất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa, gần gũi, chân tình với mọi người. Vì thế cái tên chị Ba, cô Ba, bà Ba thân thương, không chỉ sống mãi trong lòng nhân dân quê hương Bến Tre và cả nước, mà còn sống mãi với bạn bè năm châu.

Ngày 26.8.1992, trái tim của vị nữ tướng huyền thoại Nguyễn Thị Định ngừng đập. Bà đã sống một cuộc đời trọn vẹn với non sông, đất nước, đã có nhiều đóng góp lớn lao với Tổ quốc, với nhân dân. Bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và nhiều huân chương cao quý khác.

 

Theo Báo Tin tức
120 NĂM NGÀY SINH TỔNG BÍ THƯ LÊ HỒNG PHONG: NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG SẢN HIẾN DÂNG TRỌN ĐỜI CHO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG

Với 40 năm tuổi đời, 20 năm hoạt động cách mạng liên tục và nhiệt huyết, Tổng Bí thư Lê Hồng Phong đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta.

 

Tổng Bí thư Lê Hồng Phong (6.9.1902 - 6.9.1942)

 

Cuộc đời của đồng chí là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, trọn đời hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.

Nhà lãnh đạo tài năng của Đảng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tổng Bí thư Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 6.9.1902 trong một gia đình nông dân ở làng Đông Thôn, tổng Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An) - vùng đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng.

Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống yêu nước, với nhiều sĩ phu nổi tiếng, lại chứng kiến cảnh đất nước lầm than, nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột, Lê Hồng Phong đã sớm nuôi trong mình tư tưởng yêu nước và ý chí làm cách mạng. Sau khi học hết bậc Sơ học yếu lược, đồng chí rời quê ra thành phố Vinh, làm công nhân tại nhà máy diêm Bến Thủy; vận động công nhân đứng lên đấu tranh. Sau đó đồng chí quyết tâm bôn ba tìm đường cứu nước.

Cuối năm 1923, Lê Hồng Phong cùng Phạm Hồng Thái bí mật sang Xiêm (Thái Lan) gặp các nhà yêu nước Việt Nam. Năm 1924, Lê Hồng Phong sang Quảng Châu (Trung Quốc) gia nhập nhóm Tâm Tâm xã và sau đó được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được Người giác ngộ cách mạng. Kể từ đó đồng chí quyết tâm đi theo con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tham dự lớp huấn luyện cán bộ do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở thành một trong những cán bộ lãnh đạo lớp đầu tiên của cách mạng nước ta. Đồng chí đã được học tập toàn diện về quân sự và chính trị tại Trường Quân sự Hoàng Phố, Trường Không quân ở Quảng Châu (Trung Quốc), Trường Lý luận quân sự của lực lượng không quân Xôviết ở Lêningrat, Trường Đào tạo phi công quân sự ở Bôritơlepxcơ (Liên Xô). Sau khi tốt nghiệp, đồng chí hoạt động trong lực lượng Hồng quân Xôviết và nhận trọng trách liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian này, đồng chí được học tập lý luận cách mạng một cách hệ thống tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tốt nghiệp khóa ba năm (1928-1931), sau đó vào học tiếp năm thứ nhất lớp nghiên cứu sinh.

Sau cao trào Xô Viết Nghệ-Tĩnh (1930-1931), do sự khủng bố dã man và tàn bạo của thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam gặp muôn vàn khó khăn và tổn thất nặng nề. Hầu hết các Ủy viên Trung ương, các Xứ ủy viên đều bị bắt hoặc bị sát hại; hàng trăm cán bộ, hàng nghìn đảng viên bị bắt bớ, tù đày. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phần nhiều bị tan vỡ hoặc tê liệt. Trước tình hình đó, tháng 11/1931, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong về nước để lãnh đạo việc khôi phục, phát triển tổ chức đảng, đưa cách mạng Đông Dương vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Đầu năm 1932, khi đến thành phố Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), đồng chí đã chắp nối liên lạc với các đồng chí trung kiên, cùng vạch ra Chương trình hành động của Đảng, được Quốc tế Cộng sản thông qua. Chương trình hành động của Đảng là một văn kiện chính trị quan trọng, khẳng định sự đúng đắn và nhất quán với đường lối cách mạng được Đảng ta vạch ra từ năm 1930, đánh giá cao thắng lợi của quần chúng cách mạng trong cao trào 1930-1931, đồng thời chỉ ra những sai lầm trong Đảng và đề ra yêu cầu kiên quyết khắc phục sai lầm, đưa cách mạng tiến lên.

Tháng 3.1934, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí tiến hành Hội nghị thành lập Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước (lúc đó gọi là Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng). Ban Chỉ huy có chức năng như một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư, đồng chí Hà Huy Tập là Ủy viên phụ trách công tác tuyên huấn. Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã chuẩn bị và quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến 31.3.1935. Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, một số văn kiện quan trọng khác và bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 Ủy viên do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu.

Cuối năm 1934, Lê Hồng Phong dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (Liên Xô) từ ngày 25.7 đến 25.8.1935. Đồng chí đã trình bày một bản báo cáo quan trọng về cuộc đấu tranh của các dân tộc ở Đông Dương và đã được Đại hội đánh giá cao. Đại hội đã thông qua quyết nghị công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản và bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản; được Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Tháng 7.1936, tại Thượng Hải, đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất, chỉ đạo chuyển hướng tổ chức và sách lược của Đảng, chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế rộng rãi, bao gồm các hình thức đấu tranh, hình thức hoạt động phong phú từ bí mật, bất hợp pháp đến công khai, bán công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, nhằm mục đích "dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng được phát triển", chuẩn bị về mọi mặt để đưa phong trào cách mạng chuyển sang cao trào 1936-1939.

Tháng 11.1937, trở về Sài Gòn sau 15 năm học tập và hoạt động ở nước ngoài, đồng chí cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng ta trong tình hình mới, góp phần tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng nước ta trong thời kỳ Mặt trận dân chủ.

Với ý chí kiên trung của người cộng sản, Lê Hồng Phong và những chiến sĩ cộng sản đã lãnh đạo Đảng ta vượt qua giai đoạn khó khăn của cuộc vận động giải phóng dân tộc và trở thành một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng thúc đẩy lịch sử phát triển của Đảng và dân tộc tiến lên.

Tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường

Trong sự nghiệp cách mạng, đồng chí Lê Hồng Phong không chỉ là người lãnh đạo kiên định và tài năng của Đảng, mà còn là tấm gương người cộng sản kiên cường.

Ngày 22.6.1939, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất tại Chợ Lớn và kết án 6 tháng tù giam. Ngày 23.12.1939 chúng đưa đồng chí về quản thúc tại quê nhà ở Nghệ An. Ngày 20.1.1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai, giam tại khám Lớn, Sài Gòn.

Cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. Tại đây, biết Lê Hồng Phong là nhân vật quan trọng của Đảng, thực dân Pháp dùng đủ loại nhục hình man rợ nhất để dày vò đến cực độ thể xác, nhưng không mảy may làm nao núng được ý chí sắt thép của đồng chí.

Sức khỏe suy kiệt dần vì đòn thù và bệnh tật, đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng vào trưa 6.9.1942 sau khi đã nhắn lại "nhờ các đồng chí báo cáo với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng".

Đánh giá về lớp cán bộ tài năng, trung kiên bất khuất thời dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay”.

Có thể nói, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, với vai trò Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Lê Hồng Phong có rất nhiều đóng góp vào việc hình thành chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần đưa cách mạng Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới đúng với những tư tưởng chỉ đạo của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Dù ở cương vị và điều kiện nào, đồng chí Lê Hồng Phong cũng luôn thể hiện một tấm gương sáng ngời của người cộng sản: sống vì Đảng, chết không rời Đảng, trọn đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.

 

Theo TTXVN
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHÊ BÌNH NHIỀU BỘ TRƯỞNG, CHỦ TỊCH UBND TỈNH, THÀNH PHỐ TRONG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG CHÁY NỔ

Sáng 12.9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị của Chính phủ về công tác phòng cháy, chữa cháy (PCCC) và sơ kết 5 năm thực hiện Nghị định số 83/2017/NĐ-CP ngày 18.7.2017 về công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng PCCC.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

 

Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tuyến, kết nối từ điểm cầu Chính phủ tới tất cả cấp tỉnh, cấp huyện trong cả nước.

Đồng chí Triệu Thế Hùng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị tại điểm cầu Hải Dương.

Tại sao cháy hay xảy ra ở quán karaoke mà không rút kinh nghiệm?

Phát biểu kết luận hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ghi nhận những kết quả đạt được trong công tác PCCC và cứu nạn, cứu hộ thời gian qua, song cũng thẳng thắn chỉ rõ nhiều hạn chế, vướng mắc, bất cập trong công tác này.

“Tôi trăn trở tại sao cháy hay xảy ra ở quán karaoke, ở TP Hà Nội thường xảy ra ở quận Cầu Giấy mà không có biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi, không thấy rút ra kinh nghiệm?”, Thủ tướng Chính phủ nêu câu hỏi.

Thủ tướng Chính phủ khẳng định ý thức trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo PCCC ở một số nơi chưa tốt, nhất là người đứng đầu, còn tình trạng cơ quan, đơn vị, người dân chủ quan, lơ là. Chế tài xử phạt vi phạm chưa đủ mạnh, chưa nghiêm, dẫn tới chây ì, kéo dài, không khắc phục vi phạm. Công tác kiểm tra, thanh tra, đôn đốc, xử lý trách nhiệm tổ chức, cá nhân chưa nghiêm. Văn bản quy phạm pháp luật còn chưa hoàn thiện, đồng bộ, chưa có Luật PCCC. Đầu tư cơ sở vật chất cho PCCC, cứu nạn cứu hộ còn khiêm tốn. Các lực lượng chức năng chưa phối hợp chặt chẽ. Hạ tầng PCCC chưa đúng tầm. Trong công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa coi trọng công tác PCCC. Nhiều quán karaoke không bảo đảm điều kiện PCCC...

Thủ tướng Chính phủ nói “rất buồn” vì sau 5 năm thực hiện Nghị định số 83 chỉ có 3 Bộ (Công an, Giao thông vận tải, Tư pháp) và 40 tỉnh, thành phố có kế hoạch thực hiện nghị định. Phần lớn các bộ, ngành và nhiều địa phương chưa ban hành kế hoạch thực hiện. Điều đó chứng tỏ nhiều người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương còn xem nhẹ công tác này. Có tình trạng thiếu quan tâm, quyết liệt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, còn phó mặc cho lực lượng chuyên trách.

“Thay mặt Chính phủ, tôi phê bình nhiều đồng chí Bộ trưởng, trưởng ngành, Chủ tịch UBND cấp tỉnh; yêu cầu nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm, xác định trách nhiệm; kiên quyết chấn chỉnh ngay lập tức công tác lãnh đạo, chỉ đạo PCCC và cứu nạn cứu hộ”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh.

Những vụ cháy nghiêm trọng là cảnh báo khẩn cấp

 

Đồng chí Triệu Thế Hùng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị tại điểm cầu Hải Dương

 

Thủ tướng nêu rõ những vụ cháy nổ nghiêm trọng, thương tâm là cảnh báo khẩn cấp, đặt ra yêu cầu mới trong PCCC, cứu nạn, cứu hộ; đòi hỏi cần có sự thay đổi nhận thức, tư duy, cách làm, công tác quản lý nhà nước… Trong thời gian tới, dự báo tình hình cháy nổ sẽ khó lường, phức tạp hơn, nhất là ở đô thị, nhà cao tầng, chợ, trung tâm thương mại, cơ sở tập trung đông người, khu công nghiệp...

Do đó, người đứng đầu Chính phủ yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, các lực lượng chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của người dân trong công tác PCCC, cứu nạn cứu hộ. Người dân phải là trung tâm, chủ thể trong phòng chống cháy nổ, cứu nạn, cứu hộ. Đặt sự an toàn, tính mạng của người dân trên hết, trước hết. An toàn cháy nổ góp phần vào ổn định, phát triển kinh tế - xã hội. Ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới chấm dứt hậu quả nghiêm trọng, chết người do nguyên nhân chủ quan. Nâng cao ý thức, kỹ năng của người dân trong PCCC, cứu nạn, cứu hộ. Tiếp tục triển khai, thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong PCCC, cứu nạn, cứu hộ. Các bộ, ngành, địa phương chưa xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị định số 83 thì phải thực hiện ngay. Tập trung hoàn thiện chính sách pháp luật về công tác này. Nghiên cứu xây dựng Luật PCCC. Rà soát, hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy trình cho phù hợp với giai đoạn hiện nay.

Tổng kiểm tra, rà soát trên toàn quốc

Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng kiểm tra những nơi xảy ra nhiều vụ cháy nổ, làm rõ nguyên nhân, xử lý trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan. Bộ Công an tiến hành tổng kiểm tra, rà soát trong toàn quốc về PCCC, nhất là các cơ sở tập trung đông người, nơi tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ cao; xử phạt nghiêm minh, bắt buộc khắc phục các cơ sở có vi phạm, hạn chế. Thực hiện kiểm tra, thanh tra nghiêm ngặt, nghiêm minh, chống tiêu cực, tham nhũng trong công tác này.

Kiện toàn, củng cố các lực lượng PCCC, cứu nạn, cứu hộ tại chỗ. Tăng cường tập huấn các phương án cháy nổ; xây dựng kế hoạch hiệp đồng giữa các lực lượng. Quan tâm bố trí kinh phí đầu tư, cơ sở vật chất cho lực lượng PCCC và cứu nạn, cứu hộ. Tập trung nguồn lực xây dựng hạ tầng PCCC. Tăng cường hợp tác quốc tế, huy động hợp tác công tư… để tạo nguồn lực. Xây dựng, kiện toàn lực PCCC, cứu nạn, cứu hộ cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh thông, tinh nhuệ… Bố trí lực lượng PCCC ở các địa bàn trọng điểm, bám sát người dân. Sớm hoàn thiện, trình Thủ tướng quy hoạch PCCC giai đoạn 2021-2030. Khẩn trương nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, công nghệ chữa cháy tự động vào PCCC. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục kiến thức, kỹ năng PCCC, cứu nạn, cứu hộ để nâng cao ý thức của người dân trong tự bảo vệ chính mình, gia đình mình và xã hội. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước.

Theo báo cáo của Bộ Công an, trong giai đoạn 2017-2021, toàn quốc xảy ra 17.055 vụ cháy và 149 vụ nổ, làm chết 497 người chết người, 842 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính hơn 7.044 tỷ đồng. Trong 8 tháng đầu năm nay, cả nước xảy ra 1.136 vụ cháy, làm 57 người chết, 52 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính 532 tỷ đồng.

Tại hội nghị, nhiều lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, đơn vị đã phát biểu tham luận làm rõ thực trạng, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác PCCC và cứu nạn, cứu hộ.

 

NINH TUÂN (baohaiduong.vn)
HỘI NGHỊ TRỰC TUYẾN TOÀN QUỐC VỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY

Sáng 12/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác phòng cháy, chữa cháy và sơ kết 05 năm thực hiện Nghị định số 83/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về công tác cứu nạn, cứu hộ và lực lượng phòng cháy, chữa cháy.

Tại điểm cầu Hải Dương, đồng chí Triệu Thế Hùng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị.

 

Đồng chí Triệu Thế Hùng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị tại điểm cầu Hải Dương

 

Theo báo cáo của Bộ Công an, Theo báo cáo của Bộ Công an, trong giai đoạn 2017-2021, toàn quốc xảy ra 17.055 vụ cháy và 149 vụ nổ, làm chết 497 người chết người, 842 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính hơn 7.044 tỷ đồng. Trong 8 tháng đầu năm nay, cả nước xảy ra 1.136 vụ cháy, làm 57 người chết, 52 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính 532 tỷ đồng.

Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ khẳng định ý thức trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo PCCC ở một số nơi chưa tốt, nhất là người đứng đầu, còn tình trạng cơ quan, đơn vị, người dân chủ quan, lơ là. Chế tài xử phạt vi phạm chưa đủ mạnh, chưa nghiêm, dẫn tới chây ì, kéo dài, không khắc phục vi phạm. Công tác kiểm tra, thanh tra, đôn đốc, xử lý trách nhiệm tổ chức, cá nhân chưa nghiêm. Văn bản quy phạm pháp luật còn chưa hoàn thiện, đồng bộ, chưa có Luật PCCC. Đầu tư cơ sở vật chất cho PCCC, cứu nạn cứu hộ còn khiêm tốn. Các lực lượng chức năng chưa phối hợp chặt chẽ. Hạ tầng PCCC chưa đúng tầm. Trong công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa coi trọng công tác PCCC. Nhiều quán karaoke không bảo đảm điều kiện PCCC...

Tại hội nghị, đại diện một số bộ, ngành, địa phương đã trình bày tham luận về đến công tác PCCC và CNCH liên quan đến bộ, ngành, địa phương mình; đồng thời thảo luận, trao đổi về công tác quản lý công tác PCCC từ cơ sở; công tác xây dựng và áp dụng văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực PCCC; Công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực PCCC và CNCH; kiện toàn, củng cố lại các lực lượng tại chỗ làm công tác PCCC và CNCH; những thuận lợi, khó khăn, bài học kinh nghiệm trong tác chữa cháy và CNCH tại các địa phương;…

 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh chính phát biểu tại hội nghị

 

Phát biểu kết luận hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ghi nhận những kết quả đạt được trong công tác PCCC và cứu nạn, cứu hộ thời gian qua, song cũng thẳng thắn chỉ rõ nhiều hạn chế, vướng mắc, bất cập trong công tác này. Đồng thời, đề nghị các đại biểu tập trung đánh giá những kết quả đạt được, đặc biệt là những việc chưa làm được, những tồn tại, hạn chế, khó khăn, làm rõ nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm. Trong đó tập trung vào các vấn đề như: hoàn thiện chính sách, pháp luật; khâu tổ chức thực hiện và công tác quản lý nhà nước; nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng về phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn; hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, chế tài xử lý vi phạm; tăng cường năng lực phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ cứu nạn...

Theo Cổng thông tin điện tử Hải Dương

NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI QUY ĐỊNH 80 BỘ CHÍNH TRỊ VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ CÁN BỘ VÀ BỔ NHIỆM, GIỚI THIỆU CÁN BỘ ỨNG CỬ

Ngày 18/8/2022, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 80-QĐ/TW, thay thế Quy định 105 (ngày 19.12.2017) về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Quy định góp phần bảo đảm chặt chẽ, dân chủ, công khai trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Inforgraphic: Ban Tuyên giáo Thành ủy Chí Linh.

 
 
 
 
 
 
 
 
HƯỚNG TỚI THỰC HIỆN DỊCH VỤ CÔNG THEO PHƯƠNG THỨC “3 KHÔNG”

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

Sáng 15.9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị trực tuyến toàn quốc chuyên đề đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Hội nghị được thực hiện trực tuyến tại đầu cầu trụ sở Chính phủ với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 705 quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trong cả nước.

Dự hội nghị tại đầu cầu trụ sở Chính phủ có Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương, một số tập đoàn kinh tế trong lĩnh vực viễn thông, các hiệp hội doanh nghiệp trong nước và nước ngoài tại Việt Nam.

Đồng chí Trần Văn Quân, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị tại điểm cầu tỉnh Hải Dương.

Cải cách thủ tục hành chính góp phần phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội

Tại hội nghị, các đại biểu nghe báo cáo và thảo luận, đánh giá một cách tổng thể, khách quan, toàn diện, sâu sắc các nhiệm vụ được triển khai về thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp thời gian qua; kết quả đạt được; những việc chưa làm được; đề ra định hướng, giải pháp và nhiệm vụ cụ thể từ nay đến hết năm 2025, bảo đảm thiết thực, phù hợp với tình hình thực tế nhằm triển khai có hiệu quả, thực chất công tác này.

Các đại biểu cho rằng để việc cải cách thủ tục hành chính được thúc đẩy, hiệu quả hơn thì các cấp, ngành, nhất là người đứng đầu cần chỉ đạo quyết liệt, sâu sát trong tổ chức thực hiện; mặt khác cán bộ, công chức thực thi công vụ cần nỗ lực, tâm huyết hơn và được đào tạo nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn; tăng cường tuyên truyền, huy động cả các tổ chức chính trị xã hội tham gia.

Các đại biểu đề nghị việc phân cấp trong thực hiện thủ tục hành chính cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn để các cấp dễ dàng thực hiện.

Đặc biệt, tiếp tục tăng cường đầu tư các công cụ kỹ thuật số, hạ tầng công nghệ thông tin, trang thiết bị phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và thực hiện các thủ tục hành chính trên không gian mạng; hoàn thiện và tích hợp các cơ sở dữ liệu để việc triển khai cải cách thủ tục hành chính được đồng bộ, dễ dàng, hiệu quả.

Phát biểu kết luận hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá thời gian qua, công tác cải cách thủ tục hành chính được các bộ, ngành, địa phương quan tâm, nỗ lực triển khai các nhóm nhiệm vụ, giải pháp và đạt được nhiều kết quả tích cực.

Hơn 1.700 quy định được cắt giảm, đơn giản hóa tại 125 văn bản quy phạm pháp luật, hơn 1.100 quy định kinh doanh đã được phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa; việc phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính được quan tâm chỉ đạo, từng bước đẩy mạnh theo hướng cấp nào sát cơ sở, sát nhân dân nhất thì giao cấp đó giải quyết, không để nhiều tầng nấc, kéo dài thời gian giải quyết và gây nhũng nhiễu, tiêu cực, với 699 thủ tục hành chính đã được phê duyệt phương án phân cấp giải quyết.

Thủ tướng cho biết dịch vụ công trực tuyến được triển khai ngày càng hiệu quả, sâu rộng; đã cung cấp 3.805 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4; hơn 2,8 triệu tài khoản đăng ký (tăng 2,8 lần so với cùng kỳ); hơn 4,78 triệu hồ sơ trực tuyến được thực hiện (tăng 3 lần cùng kỳ); hơn 129,6 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái (tăng 2 lần cùng kỳ); hơn 2,6 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến với hơn 2,78 nghìn tỷ đồng (tăng 16 lần cùng kỳ).

Nhiều bộ, ngành, địa phương đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng với tỷ lệ cao; hơn 14,2 triệu văn bản điện tử được gửi, nhận giữa các cơ quan hành chính nhà nước; gần 1.300 phiếu điện tử lấy ý kiến thành viên Chính phủ thực hiện trên Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ.

Các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành được đẩy mạnh triển khai, đặc biệt là Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đã số hóa và tạo lập gần 100 triệu dữ liệu dân cư được cấp số định danh cá nhân, cập nhật thường xuyên từ cấp xã, bảo đảm tiêu chí “đúng, đủ, sạch, sống;” cấp hơn 68 triệu thẻ căn cước có gắn chíp điện tử cho công dân. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giám sát, đánh giá được quan tâm triển khai.

Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân đã tích cực thúc đẩy cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành, thu được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước, tạo đà cho phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.

“Cải cách thủ tục hành chính đã góp phần phòng, chống dịch bệnh hiệu quả; ổn định kinh tế vĩ mô; kiểm soát lạm phát; phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị; bảo đảm trật tự an toàn xã hội; nâng cao đời sống nhân dân...,” Thủ tướng khẳng định.

Người đứng đầu Chính phủ cũng thẳng thắn chỉ rõ các tồn tại, hạn chế cần được sớm khắc phục để công tác này thực chất, hiệu quả hơn như một số lãnh đạo các cấp chưa thực sự quan tâm, quyết liệt chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho cải cách thủ tục hành chính; hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành, nhiều nơi còn hình thức; thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn nhiều rào cản, gây bức xúc trong xã hội; việc cắt giảm, đơn giản hóa quy định kinh doanh chưa được quan tâm thực hiện đúng mức; việc kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh với cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành cũng như việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu; công tác thông tin, truyền thông còn hạn chế...

Hướng tới thực hiện các dịch vụ công theo phương thức “3 không”

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả; chú trọng tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số...

Để việc cải cách thủ tục hành chính đạt hiệu quả phải có quyết tâm cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt; có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược và luôn đổi mới; phải luôn xác định “trụ cột, động lực” của cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành thời gian tới là chuyển đổi số.

“Nếu không nỗ lực đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác chỉ đạo, điều hành thì chúng ta sẽ tụt hậu,” Thủ tướng chỉ rõ.

Theo Thủ tướng, phải phát huy tinh thần chủ động, tính sáng tạo, cương quyết loại bỏ lợi ích cục bộ, với phương châm “Lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu, động lực.”

Cải cách thủ tục hành chính phải bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo; nói phải đi đôi với làm và phải có kết quả cụ thể; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền để giảm tầng nấc, khâu trung gian; thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, cá thể hóa trách nhiệm, đề cao vai trò người đứng đầu; đẩy mạnh xây dựng các hệ thống thông tin, sử dụng tài nguyên thông tin, dữ liệu thiết thực, hiệu quả, phục vụ công tác giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp và chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp.

 

Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Hải Dương

Về nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương rà soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt trước ngày 30 tháng 9 hằng năm; tổ chức thực thi ngay các phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định kinh doanh đã được phê duyệt và phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính, đồng thời tập trung rà soát, đơn giản hóa 59 thủ tục hành chính/nhóm thủ tục hành chính nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nước.

“Trong quá trình rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính phải tham khảo, lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu, đảm bảo khả thi, hiệu quả”, Thủ tướng nhắc nhở.

Người đứng đầu Chính phủ chỉ đạo, các bộ, ngành, địa phương thực hiện hợp nhất Cổng Dịch vụ công với Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh thành Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tập trung duy nhất; khẩn trương ban hành quy trình nội bộ trong giải quyết thủ tục hành chính và tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ; hoàn thiện, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, bảo đảm thân thiện với người dùng; đẩy nhanh tiến độ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính theo đúng quy định của Chính phủ.

Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phấn đấu đạt một số chỉ tiêu cụ thể.

Nâng cao mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của chính quyền các cấp trong thực hiện thủ tục hành chính, đến năm 2023 đạt trên 80%, năm 2025 đạt trên 90% mức độ hài lòng; tỷ lệ giải quyết đúng hạn tại Trung tâm phục vụ hành chính công phải đạt trên 90%.

Thủ tướng đề nghị đến cuối năm 2023, tỷ lệ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến phải đạt 50%; hướng tới hầu hết các dịch vụ công phải được thực hiện theo phương thức “3 không”, gồm không giấy tờ-không tiền mặt-không văn phòng.

Đến cuối năm 2022, yêu cầu 100% thủ tục hồ sơ tiếp nhận phải được xử lý, cập nhật trạng thái trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh và đồng bộ 100% trạng thái hồ sơ lên Cổng dịch vụ công quốc gia.

Đặc biệt, Thủ tướng lưu ý đẩy mạnh kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành với Cổng Dịch vụ công quốc gia và Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng.

Thực hiện đánh giá nỗ lực cải cách quy định kinh doanh, chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công bằng dữ liệu và theo thời gian thực.

Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục thực hiện nghiêm việc ký số, gửi nhận văn bản và xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng tại các cấp chính quyền; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các phần mềm chế độ báo cáo theo yêu cầu của Nghị định số 09/2019/NĐ-CP; yêu cầu đến cuối tháng 6 năm 2023, tỷ lệ hồ sơ xử lý công văn giấy tờ trực tuyến ở các bộ, ngành Trung ương và cơ quan hành chính cấp tỉnh phải đạt 100%.

Thực hiện kết nối, tích hợp, chia sẻ các thông tin, dữ liệu và xây dựng các bộ chỉ số phục vụ chỉ đạo, điều hành của bộ, cơ quan, địa phương tích hợp với Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Phấn đấu đến giữa năm 2023, có 5 bộ, ngành và 10 địa phương hoàn thành xây dựng bộ chỉ số điều hành đưa vào hoạt động và tích hợp thông tin, dữ liệu với Trung tâm Thông tin, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Thủ tướng giao một số nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành nhằm nâng cao chất lượng thẩm định quy định về thủ tục hành chính; đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, trong đó sớm triển khai các nhóm tiện ích thiết yếu phục vụ người dân và nghiệp vụ ngành công an trên nền tảng VneID và tăng cường công tác truyền thông để người dân tin tưởng, sử dụng.

Thủ tướng chỉ đạo hoàn thành việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Hệ thống định danh, xác thực điện tử với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh trong tháng 9.2022.

Các bộ, ngành liên quan tổ chức hướng dẫn việc lưu trữ hồ sơ, dữ liệu điện tử; khẩn trương trình Chính phủ ban hành nghị định về kết nối và chia sẻ thông tin trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh người và phương tiện vận tải theo cơ chế một cửa quốc gia; kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu tổng hợp về Khung đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội; kết nối, tích hợp, liên thông hệ thống thông tin thống kê quốc gia với Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; xây dựng, hoàn thiện và đưa vào vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các cơ sở dữ liệu khác và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Thủ tướng lưu ý các bộ, ngành, địa phương cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng, bảo đảm thống nhất cách hiểu về dịch vụ công trực tuyến và lộ trình chuyển đổi cho phù hợp với thực tiễn; xây dựng, triển khai hệ thống phục vụ theo dõi, kiểm tra thực hiện cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng; đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông nhằm nâng cao nhận thức và sự hưởng ứng của người dân, doanh nghiệp trong sử dụng dịch vụ công trực tuyến; rà soát, đánh giá an toàn thông tin, an ninh mạng các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, khẩn trương khắc phục những lỗ hổng bảo mật, lộ lọt thông tin và bảo vệ dữ liệu cá nhân...

Thủ tướng kêu gọi người dân, doanh nghiệp tích cực tham gia xây dựng chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có chính sách liên quan người dân, doanh nghiệp; trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” để mối quan hệ giữa Chính phủ với người dân, doanh nghiệp ngày càng chặt chẽ hơn; tất cả vì lợi ích của người dân, doanh nghiệp, lợi ích quốc gia, dân tộc.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị các bộ, ngành, địa phương triển khai quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa, bảo đảm đáp ứng yêu cầu, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cũng như xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, kỷ luật, kỷ cương, hiện đại, hiệu quả, liêm chính, phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Theo TTXVN

TĂNG CƯỜNG CHỐNG BUÔN LẬU, GIAN LẬN THƯƠNG MẠI VÀ HÀNG GIẢ

Ngày 13/9/2022, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh – Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả ký ban hành Kế hoạch 92/KH-BCĐ về việc tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên các tuyến biên giới, vùng biển và địa bàn nội địa.

Theo đó, để nâng cao hiệu quả công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả bảo vệ lợi ích chính đáng của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sản xuất, kinh doanh, quyền lợi người tiêu dùng, góp phần ổn định thị trường trong nước và phát triển kinh tế - xã hội; Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (Ban Chỉ đạo 389 quốc gia) yêu cầu Ban Chỉ đạo 389 Bộ Tài chính chỉ đạo lực lượng hải quan tăng cường công tác thu thập thông tin, nắm chắc tình hình trong địa bàn hoạt động hải quan; giám sát, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hành lý, phương tiện xuất nhập cảnh, hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển; tập trung kiểm tra, kiểm soát hàng cấm, hàng lậu, hàng giả, hàng gian lận về nguồn gốc, xuất xứ, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng tiêu dùng...; trao đổi, phối hợp xây dựng các phương án, kế hoạch điều tra, xác minh, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các vụ việc phức tạp, nổi cộm về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.

Bên cạnh đó, cần chỉ đạo lực lượng thuế tăng cường công tác quản lý thuế, kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc kê khai, quyết toán thuế của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh để thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí, khoản thu khác; quản lý chặt việc hoàn thuế, bảo đảm hoàn đúng đối tượng, đúng chế độ; kiểm tra, rà soát đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro cao về thuế nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi trốn thuế, nợ đọng thuế, chuyển giá; tăng cường biện pháp quản lý, kiểm tra việc phát hành, sử dụng hóa đơn điện tử nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi mua bán, sử dụng trái phép hóa đơn điện tử để hợp thức hàng nhập lậu, trốn thuế.

Ban Chỉ đạo 389 các tỉnh, thành phố thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin, xây dựng phương án, kế hoạch kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời, hiệu quả hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, không để phát sinh điểm nóng, kho, bãi, điểm tập kết, trung chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ... trên địa bàn quản lý; xử lý kịp thời, công khai, nghiêm minh những tập thể, cá nhân tiếp tay, bao che, bảo kê hoặc tham gia hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả…

Kế hoạch trên thực hiện từ ngày 15/9/2022 – 15/9/2025.

File đính kèm:

KH-BCD389_13092022-signed.pdf

Nguồn: BBT (Theo Cổng thông tin điện tử Hải Dương)

THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH CHỦ TRÌ HỌP TRIỂN KHAI ỨNG PHÓ VỚI SIÊU BÃO

Sáng sớm 27.9, trước diễn biến khó lường của bão số 4 (có tên quốc tế là bão Noru), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì họp triển khai công tác ứng phó với siêu bão này.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp khẩn ứng phó cơn bão số 4

Cuộc họp được tổ chức trực tiếp tại Trụ sở Chính phủ kết hợp trực tuyến với điểm cầu UBND 8 tỉnh, thành phố; 88 quận, huyện, thị xã; 1.155 xã, phường các tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên dự báo có bão đổ bộ và ảnh hưởng hoàn lưu sau bão.

Dự cuộc họp tại đầu cầu Trụ sở Chính phủ có Phó Thủ tướng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai Lê Văn Thành; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp khẩn ứng phó cơn bão số 4

Mở đầu cuộc họp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, bão Noru được cho là siêu bão, gió giật lên tới cấp 17 đang tiến vào miền Trung Việt Nam. Ngày 25/9, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 855/CĐ-TTg yêu cầu các cơ quan và các địa phương liên quan tập trung chỉ đạo, triển khai công tác ứng phó bão số 4 theo phương châm "bốn tại chỗ" với tinh thần khẩn trương, quyết liệt nhất. Bão đổ bộ ngoài gió lốc xoáy còn có mưa to do hoàn lưu sau bão. Do đó, ngoài chống bão còn phải chống sạt lở, lũ lụt do mưa sau bão.

Cuộc họp này Chính phủ tổ chức trực tuyến xuống tới xã, phường vì đây chính là cấp gần dân nhất, trực tiếp thực hiện các biện pháp phòng, chống bão, mưa lũ để rà soát công tác phòng, chống bão, bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân ngay từ khi bão chưa đổ bộ.

 

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp khẩn ứng phó cơn bão số 4

Theo đó, rà soát công tác kêu gọi ngư dân, tàu thuyền đánh bắt thủy hải sản vào nơi tránh trú an toàn; đảm bảo an toàn lòng bè nuôi trồng thủy sản; các sinh kế của người dân; an toàn cho học sinh, khách du lịch; bảo vệ các di sản, nhất là di sản thế giới như phố cổ Hội An, cố đô Huế; bảo vệ các công trình hạ tầng, kinh tế... nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại do bão lũ.

Tiếp tục cập nhật thông tin về cuộc họp...!

 

Theo TTXVN
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, VẬN HÀNH AN TOÀN ĐẬP, HỒ CHỨA NƯỚC THỦY LỢI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG

Ngày 30/9/2022, Chủ tịch UBND tỉnh ký ban hành Chỉ thị số 14/CT-UBND yêu cầu các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân có liên quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Thủy lợi ngày 19/6/2017, Nghị định số 114/2018/NĐCP ngày 04/09/2018 của Chính phủ về quản lý an toàn hồ đập, hồ chứa nước và các quy định khác có liên quan để nâng cao ý thức chấp hành của các tổ chức, cá nhân về quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa nước.

UBND tỉnh yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước thủy lợi trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị khai thác đập, hồ chứa nước thủy lợi và các đơn vị có liên quan thực hiện quy định về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước thuộc phạm vi quản lý; tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các vi phạm hành chính về an toàn đập, hồ chứa nước thủy lợi;

Đối với các sở, ngành thuộc tỉnh căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, tăng cường phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân thành phố Chí Linh và các đơn vị liên quan tổ chức thực hiện tốt các quy định về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước trên địa bàn tỉnh.

Ủy ban nhân dân thành phố Chí Linh cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước thủy lợi trên địa bàn; Chịu trách nhiệm về an toàn của đập, hồ chứa nước trên địa bàn; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các vi phạm hành chính về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước trên địa bàn. Đồng thời, phân công, phân cấp trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an toàn đập, hồ chứa nước do địa phương quản lý; củng cố đơn vị chuyên trách về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước; đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho người tham gia hoạt động về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước trên địa bàn;

Các cơ quan, đơn vị được giao quản lý, khai thác đập, hồ chứa nước thủy lợi trên địa bàn tỉnh thực hiện trách nhiệm quản lý, khai thác đập, hồ chứa nước được giao trực tiếp quản lý khai thác theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Thủy lợi ngày 19/6/2017 và Nghị định số 114/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước; Nâng cao năng lực thực hiện công tác quản lý an toàn đập, hồ chứa nước; phát hiện, ngăn chặn kịp thời, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các vi phạm hành chính trong phạm vi bảo vệ đập, hồ chứa thuỷ lợi; đảm bảo an toàn trong quá trình khai thác, vận hành đập, hồ chứa nước; khai thác, sử dụng đúng mục tiêu, nhiệm vụ của công trình; Thường xuyên kiểm tra, đánh giá an toàn đập, hồ chứa nước, nắm bắt kịp thời hiện trạng, chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống, xử lý kịp thời các

hư hỏng để bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước; thông báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân thành phố Chí Linh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khi có các tình huống mất an toàn đập, hồ chứa nước.

File đính kèm:

CHI THI AN TOAN HO DAP 2022.pdf

 

Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hải Dương
VIỆT NAM TRÚNG CỬ HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HỢP QUỐC NHIỆM KỲ 2023-2025

Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, tại phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 tại New York (Mỹ).

 

Quang cảnh một phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77
 
Tại Liên hợp quốc, 11h45 ngày 11.10.2022 (22h45 cùng ngày theo giờ Việt Nam), Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, tại phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 tại New York (Mỹ).

14 thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền sẽ đảm nhiệm trọng trách trong nhiệm kỳ 3 năm, bắt đầu vào tháng 1.2023.

Kết quả bầu cử cho thấy sự tham gia tích cực của Việt Nam trong các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, những cam kết và nỗ lực mạnh mẽ của Việt Nam về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, tin tưởng và đánh giá cao.

Với trọng trách mới tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Việt Nam sẽ có cơ hội đóng góp vào thúc đẩy tất cả các quyền con người trên cơ sở khách quan, hợp tác và đối thoại.

Việt Nam sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn đối với các vấn đề trọng tâm của Liên hợp quốc cũng như của cộng đồng quốc tế, như thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, di cư, bảo vệ và thúc đẩy quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người thiểu số, người di cư, đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng nhân đạo hoặc xung đột vũ trang trên phạm vi toàn thế giới.

Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc. Năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu 184/192, cao nhất trong số 14 nước thành viên mới.

Theo Vietnam+

NHỮNG DOANH NHÂN YÊU NƯỚC NỔI TIẾNG TRONG LỊCH SỬ

Giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX đã sinh ra nhiều thương gia Việt Nam giàu có. Những doanh nhân này không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn vì lòng yêu nước.

 

Doanh nhân Bạch Thái Bưởi

Cho đến đầu thế kỷ XX, nước ta chưa có lớp doanh nhân đúng nghĩa.

Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một chân trời mới cho doanh nhân Việt Nam để phát triển trở thành một lực lượng dân tộc và tham gia vào công cuộc kiến quốc.

Không ít người hiến tặng cả cuộc đời và sản nghiệp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX đã sinh ra nhiều thương gia Việt Nam giàu có. Những doanh nhân này không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn vì lòng yêu nước.

Họ biết gắn mục tiêu kinh doanh của mình với sự hưng vong của dân tộc. Họ luôn đề cao tinh thần và lòng tự hào dân tộc.

Bạch Thái Bưởi (1874-1932): tấm gương sáng, cổ vũ các thế hệ doanh nhân Việt vươn lên khẳng định mình

Trong lịch sử kinh tế nước nhà, cái tên Bạch Thái Bưởi có ý nghĩa vô cùng lớn. Cuộc đời, sự nghiệp của ông là một tấm gương sáng, cổ vũ các thế hệ doanh nhân Việt Nam vươn lên khẳng định mình. Với tinh thần dân tộc vô cùng mạnh mẽ “phải làm sao để ngọn cờ của công ty người Việt Nam ta phất phới trên năm châu bốn biển, để cả thế giới biết đến người Việt Nam và đất nước Việt Nam”, Bạch Thái Bưởi đã từ một người tay trắng trở thành một doanh nhân Việt Nam kiệt xuất trong những năm đầu thế kỷ XX.

Xuất thân từ một ký lục (nhân viên thư ký) cho hãng buôn của người Pháp ở phố Tràng Tiền, Hà Nội, năm 1894, ông chuyển sang làm cho một xưởng thuộc hãng thầu công chính, nơi lần đầu tiên ông được tiếp xúc, thu nhận những hiểu biết về máy móc, cách tổ chức, quản lý sản xuất.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi người Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống. Bạch Thái Bưởi tìm cơ hội trở thành đối tác cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, bắt đầu bằng việc xây cây cầu dài 3.500m nối Hà Nội với Gia Lâm.

Sau đó, ông bỏ vốn mua lại một hãng cầm đồ ở Nam Định, rồi mở hiệu cơm Tây ở Thanh Hóa, hãng rượu ở Thái Bình và làm cả cai thầu thuế chợ từ miền Bắc đến miền Trung.

Nghiệp kinh doanh lẫy lừng nhất cho Bạch Thái Bưởi bắt đầu vào năm 1909, khi ông thuê lại ba chiếc tàu của một doanh nghiệp Pháp và mở tuyến giao thông đường biển Nam Định-Hà Nội-Bến Thủy.

Tháng 4.1916, ông tuyên bố thành lập Giang hải luân thuyền Bạch Thái công ty, điều hành 17 tuyến đường thủy từ Hà Nội đến Tuyên Quang, vươn ra đến tận Hồng Kông, Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc, Singapore...

Năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, ông mua lại 6 chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7.9.1919, công ty của Bạch Thái Bưởi gây tiếng vang lớn khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Cũng chính nhờ con tàu lớn đầu tiên của Việt Nam này mà Bạch Thái Bưởi được xưng tụng là “Vua tàu thủy Việt Nam."

Làm ăn với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của phương Tây, nhưng khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc như: Lạc Long, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi…

Có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị Kinh tế lý tài, ông bị René Robin - Thống soái Bắc kỳ lúc đó - đe dọa: “Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi,” ông đáp lại: “Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin.”

Bạch Thái Bưởi được người đương thời và các thế hệ đi sau đánh giá là một nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương gia lớn, có tinh thần tự tôn dân tộc, một tâm hồn Việt…

Cũng vì thế mà ông trở thành khuôn mặt nổi tiếng của 30 năm đầu thế kỷ XX.

Ngô Tử Hạ (1882-1973): nhân sĩ yêu nước, thương dân

Trước cách mạng, nhà in nổi tiếng Ngô Tử Hạ là mạnh thường quân của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Ngô Tử Hạ quê ở Quy Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, rời quê hương nghèo đói lên Hà Nội lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp từ năm 17 tuổi.

 

Doanh nhân Ngô Tử Hạ

Sau vài năm dành dụm, ông đã mua được máy in và mở cơ sở in của riêng mình. Sau đó, ông mua thêm nhiều máy in loại hiện đại, mở rộng phát triển ngành in và trở thành người nổi tiếng nhất Đông Dương trong lĩnh vực in ấn, là một trong 300 nhà tư sản giàu nhất Đông Dương thời đó.

Đầu năm 1945 ông tham gia Mặt trận Việt Minh. Các nhà in của ông trở thành cơ sở in sách báo, tài liệu tuyên truyền cổ động của Việt Minh,

Cách mạng Tháng Tám thành công, Ngô Tử Hạ là chí sĩ yêu nước được bầu làm đại biểu Quốc hội, rồi Ủy viên Ban thường trực của Quốc hội khóa I và là đại biểu cao tuổi nhất.

Khi đó Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian nan.

Năm 1960, gia đình cụ làm đơn xin hiến cho Chính phủ toàn bộ bất động sản mà gia đình đang sở hữu, chỉ giữ lại 200m2 để làm chỗ ở và nơi thờ tự.

Theo bản kê khai ngày 29.7.1960 về nhà đất hiến cho Nhà nước, gồm nhà 24-48 Lý Quốc Sư, nhà 2/12 Ngõ Huyện, biệt thự 60 Nguyễn Du, số nhà 8 Lý Quốc Sư, nhà số 4 ngõ 338 Thịnh Yên, nhà số 31 Hàng Bông.

Nguyễn Sơn Hà (1894-1980): ông tổ nghề sơn Việt có lòng yêu nước

Nguyễn Sơn Hà được biết đến như là người khai sinh nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam và là một trong những doanh nhân hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc. Ông sinh ra tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình có 7 anh chị em.

 

Gia đình doanh nhân Nguyễn Sơn Hà

Năm 1917, sau thời gian dài làm cho hãng sơn Pháp Sauvage Cottu, Nguyễn Sơn Hà trở thành chủ của một công ty nhỏ thầu các việc sơn vôi, kẻ biển và âm thầm chế tạo thử sơn dầu. Vài năm sau, Hãng sơn Gecko của ông đã chiếm lĩnh thị trường.

Năm 1939, trong một lần vào Nam, ông tới thăm cụ Phan Bội Châu đang bị Pháp quản thúc tại Huế. Cuộc gặp gỡ này đã tác động sâu sắc đến ông và sau đó đã tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri, Hội Ánh sáng, thành lập Ban Cứu tế, Chi hội Truyền Bá quốc ngữ.

Cụ Nguyễn Văn Tố đã thân hành về Hải Phòng đề nghị ông làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng, Kiến An. Là nhà tư sản lớn và có uy tín, nên khi ông đứng ra làm Hội trưởng thì mọi tầng lớp nhân dân ở Hải Phòng, Kiến An ủng hộ rất mạnh.

Ông Nguyễn Sơn Hà là người có công rất lớn trong việc truyền bá quốc ngữ, giúp đỡ người nghèo. Trong nạn đói Ất Dậu, ông đã liên lạc với bạn bè cùng chí hướng, thuyết phục những người giàu có lập Hội Cứu tế để giúp đỡ dân nghèo. Ông cũng đấu tranh với Pháp, Nhật đòi mở kho tấm cám để cứu đói.

Trong Tuần Lễ Vàng do Chính phủ phát động, ông tích cực đóng góp tiền vàng và vận động các nhà tư sản khác và nhân dân mọi tầng lớp tham gia. Gia đình ông trong lần ủng hộ đầu tiên đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của gia đình, gồm vàng bạc, đá quý cân được 10,5 kg.

Vào những ngày đầu của “Toàn quốc kháng chiến”, ông cùng với các doanh nhân như Bùi Hưng Gia, Ngô Tử Hạ... đã tình nguyện hiến tài sản cho cách mạng.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Nguyễn Sơn Hà đã cùng người em rể dùng tiền của ông ở đại lý sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón tù chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào 23.9.1945.

Ông Nguyễn Sơn Hà là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên và tham gia cách mạng khi kháng chiến bùng nổ. Ông là người đã giúp bộ đội làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa, chế tạo được lương khô và thuốc ho…

Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam khoá khoá II, III, IV, V.

Đỗ Đình Thiện (1904-1972): người tư sản thành thư ký cho Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ông Đỗ Đình Thiện sinh năm 1904 tại làng Noi (nay thuộc Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội), có bố là thư ký cho một chủ đồn điền Pháp nhưng mất sớm. Ông Thiện được mẹ nuôi dưỡng cho học chữ Nho và chữ Quốc ngữ rồi sang Pháp du học.

 

Doanh nhân Đỗ Đình Thiện

Tại Pháp ông học trường Đại học Canh Nông (Toulouse), vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp năm 1928. Ông bị cảnh sát Pháp bắt giữ khi trao truyền đơn cách mạng cho những binh sỹ người Việt Nam đang trên đường hồi hương, bị kết án 4 tháng tù và bị trục xuất về nước.

Khi về nước ông vẫn tiếp tục bị kiểm soát gắt gao, không thể trực tiếp hoạt động cách mạng được, ông chuyển sang làm kinh tế, mở hiệu buôn bán tơ lụa rồi dựng nhà máy, lập đồn điền… để khi có điều kiện sẽ ủng hộ cách mạng, giúp đỡ các đồng chí mình hoạt động.

Năm 1946, trước khó khăn của Đảng không có nhà in riêng để in tiền, ông mua lại nhà in của Pháp và hiến cho Chính phủ để lập nhà in tiền. Tháng 3.1946, nhà máy in tiền Tôpanh được chuyển về đồn điền Chi Nê (Lạc Thủy, Hòa Bình) của gia đình ông.

Ông được cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương ở Hà Nội, đóng góp nhiều tiền, vàng cho chính quyền cách mạng. Không những vậy, ông còn mua đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sỹ Nguyễn Sáng vẽ với giá một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000 lạng vàng), sau đó tặng cho Ủy ban kháng chiến hành chính Thành phố Hà Nội.

Việc làm này của ông được đánh giá là để nhằm biểu thị lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời để tăng ngân sách cho chính quyền cách mạng.

Lúc mới giành được chính quyền, Nhà nước chưa có bộ phận lễ tân chuyên trách do vậy việc tiếp các vị khách đặc biệt được giao cho một số gia đình có điều kiện ở Hà Nội. Ngôi nhà ở 54 Hàng Gai của gia đình ông bà Thiện trở thành "nhà khách" của Chính phủ.

Đồn điền Chi Nê không những trở thành nơi dưỡng quân cho các đơn vị trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, điểm dừng chân của nhiều lãnh đạo Đảng. Từ cuối năm 1945 đầu năm 1946, nơi đây còn là cơ sở cung cấp lương thực, thực phẩm, trú quân cho các đơn vị lực lượng vũ trang Chiến khu 2.

Trong chuyến đi Pháp năm 1946, ông còn trở thành thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1947, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con nhỏ lên Việt Bắc theo cuộc kháng chiến 9 năm.

Ông bà đã giao lại đồn điền Chi Nê cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đồng thời đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam).

Trịnh Văn Bô (1914-1988): hiến gia tài cho cách mạng

Ông Trịnh Văn Bô là con út trong gia đình 3 anh chị em, cha là cụ Trịnh Phúc Lợi, một doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX.

 

Vợ chồng ông Trịnh Văn Bô

Năm 1932, ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có. Bà Minh Hồ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của chồng.

Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ đặt cửa hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn sầm uất này từng là nơi ở của nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao của Việt Nam khi chuyển hoạt động từ chiến khu về Hà Nội, trong đó có cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính nơi đây, Bác đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên Ngôn độc lập.

Thời điểm 1940, ông Trịnh Văn Bô được xem là một trong những người giàu có bậc nhất đất Hà Thành, giao thương với cả các bạn hàng ở Đông Dương, sở hữu một nhà máy dệt và kinh doanh bất động sản.

Trong "Tuần lễ vàng," gia đình ông đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ. Không những thế, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là thành viên cốt cán trong Ban vận động "Tuần lễ vàng."

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Trịnh Văn Bô, mừng đại thọ 100 tuổi của cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ (1914-2014), Bộ Tài chính biên soạn cuốn sách “Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam” nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của gia đình ông, đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

 

Theo TTXVN
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH HẢI DƯƠNG LẦN THỨ XIV THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP

Sáng 11/10, tại Trung tâm Văn hoá Xứ Đông (TP Hải Dương), Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh tỉnh Hải Dương lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2022 - 2027 tiếp tục phiên làm việc trọng thể và bế mạc.

 

Chương trình nghệ thuật chào mừng Đại hội

​Tham dự Đại hội có các đồng chí: Nguyễn Ngọc Lương, Bí thư thường trực Trung ương Đoàn, Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam; Lê Văn Hiệu, Phó Bí thư thường trực Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Triệu Thế Hùng, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND, lãnh đạo UBND tỉnh. Các đồng chí nguyên lãnh đạo tỉnh, nguyên lãnh đạo Tỉnh đoàn các thời kỳ. Đại diện Thường Trực các Tỉnh, Thành đoàn khu vực đồng bằng sông Hồng và tỉnh kết nghĩa Phú Yên; cùng 245 đại biểu chính thức đại diện cho hơn 80 nghìn đoàn viên thanh niên trong tỉnh.

Đồng chí Nguyễn Ngọc Lương, Bí thư thường trực Trung ương Đoàn, Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tặng hoa chúc mừng Đại hội

Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Ngọc Lương, Bí thư thường trực Trung ương Đoàn, Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và đồng chí Lê Văn Hiệu, Phó Bí thư thường trực Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh ghi nhận và biểu dương những nỗ lực, thành tích của các cấp bộ Đoàn toàn tỉnh đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cả nước.

Đồng chí Nguyễn Ngọc Lương và đồng chí Lê Văn Hiệu đánh giá cao tinh thần nghiêm túc, cầu thị của tuổi trẻ Hải Dương trong việc nhìn nhận những tồn tại, hạn chế để xác lập những chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong nhiệm kỳ 2022-2027. 5 năm tới là thời điểm đất nước nói chung, Hải Dương nói riêng bước vào giai đoạn phát triển mới, mở ra cho tuổi trẻ nhiều thời cơ phát triển. Tuổi trẻ Hải Dương cần chú trọng tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh thiếu nhi. Tiếp tục thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị của thanh niên. Triển khai có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tập trung triển khai các giải pháp thiết thực, phù hợp để giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc cho thanh thiếu nhi, xây dựng hình mẫu lớp công dân trẻ của Hải Dương hiếu học, trách nhiệm và thân thiện...

 

Đồng chí Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Lê Văn Hiệu thừa ủy quyền của Chủ tịch nước trao Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Tỉnh đoàn

Các cấp bộ Đoàn cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp xây dựng Đoàn vững về tư tưởng, chính trị, tổ chức và hành động, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng, năng động, sáng tạo, gương mẫu, ý thức trách nhiệm. Không ngừng tìm tòi, sáng tạo, nâng cao chất lượng các phong trào, cuộc vận động, đặc biệt là xung kích đi đầu trong chuyển đổi số. Tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, chăm lo đến thanh niên yếu thế, thất nghiệp vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống... Phát huy tốt vai trò nòng cốt chính trị của Đoàn trong tổ chức Hội LHTN và các tổ chức thành viên tập thể của hội; đa dạng hóa các giải pháp tập hợp thanh niên, nhất là thanh niên thanh niên tín đồ tôn giáo, thanh niên công nhân trong các khu công nghiệp.

Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ đề nghị tuổi trẻ Hải Dương cần bám sát các nhiệm vụ chính trị, các chương trình, đề án của địa phương để cụ thể hóa vào tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội trong nhiệm kỳ 2022 - 2027. Nghiên cứu, xác định rõ phần việc của cấp mình, cụ thể hoá thành các nhiệm vụ, giải pháp, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực. Chú trọng tham gia giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, văn hoá, nâng cao năng lực số cho thanh niên và hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp. Chủ động đề xuất cơ chế đầu tư, hỗ trợ các chương trình khởi nghiệp, các ý tưởng sáng tạo, các mô hình sản xuất mới của thanh niên…

Dịp này, Tỉnh đoàn Hải Dương vinh d được nhận Huân chương độc lập hạng Nhì vì đã có thành tích trong công tác, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

 

Đồng chí Nguyễn Ngọc Lương và đồng chí Lê Văn Hiệu tặng hoa chúc mừng Ban chấp hành Tỉnh đoàn khóa XIV

Tại phiên làm việc trọng thể, Đoàn Chủ tịch báo cáo trước Đại hội kết quả Hội nghị BCH Tỉnh đoàn lần thứ nhất và ra mắt Ban chấp hành Tỉnh đoàn khoá XIV, nhiệm kỳ 2022 – 2027. Theo đó, Ban chấp hành Tỉnh đoàn khoá XIV, nhiệm kỳ 2022 – 2027 gồm 31 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hồng Sáng tái đắc cử chức danh Bí thư Tỉnh đoàn khoá XIV, các đồng chí Bùi Hải Bằng, Dương Thị Hương Giang tái cử chức danh Phó Bí thư Tỉnh đoàn. Đại hội đã tiến hành bầu 12 đại biểu chính thức và 4 đại biểu dự khuyết đi dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII.

Tại phiên bế mạc, các đại biểu đã biểu quyết nhất trí thông qua Nghị quyết đại hội với 5 đề án trọng điểm và 12 chỉ tiêu cơ bản thể hiện ý chí quyết tâm đưa công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi Hải Dương ngày càng phát triển.

Theo Cổng thông tin điện tử Hải Dương 
Tiếp sức để đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp phát triển

Tiếp sức để đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp phát triển

Sáng 12.10, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự lễ kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13.10) và tuyên dương doanh nhân Việt Nam tiêu biểu năm 2022 do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức.

Cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, các hiệp hội doanh nghiệp và đông đảo các doanh nhân.

Diễn văn kỷ niệm do Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công cho biết, cách đây 77 năm, ngày 13.10.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho giới Công Thương và 18 năm trước, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định lấy ngày 13.10 hàng năm là Ngày Doanh nhân Việt Nam. Cộng đồng doanh nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh và nhận thức rõ sứ mệnh của mình với mục tiêu và khát vọng của dân tộc.

Trong 2 năm 2020-2021, cùng với cả nước, các doanh nghiệp, doanh nhân phải gồng mình chống chọi với đại dịch COVID-19. Nhiều doanh nhân, doanh nghiệp đã nêu tấm gương sáng về tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, trách nhiệm xã hội, khi vừa lo duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm, đời sống cho người lao động, vừa lăn xả hỗ trợ công tác phòng, chống đại dịch.

Trong đó, có doanh nhân đã cùng doanh nghiệp của mình ủng hộ trị giá tới trên 1.200 tỷ đồng cho cuộc chiến chống đại dịch COVID-19. Đội ngũ doanh nhân đóng góp quan trọng vào những kết quả phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời gian qua, nhất là kết quả rất tích cực của 9 tháng năm 2022.

Chủ tịch VCCI mong muốn và kêu gọi các doanh nhân luôn nêu cao tinh thần dân tộc, trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, cùng hun đúc và lan tỏa các giá trị đạo đức doanh nhân, xây dựng doanh nghiệp vững mạnh, quốc gia hùng cường, thịnh vượng; tiếp tục thể hiện trách nhiệm, phát triển bền vững doanh nghiệp của mình và dẫn dắt cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam phát triển.

Thay mặt các doanh nhân, ông Trần Bá Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Hải bày tỏ biết ơn sự quan tâm, tạo điều kiện, động viên mà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ dành cho doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam, nhất là trong và sau đại dịch COVID-19.

Trong hai năm qua, thực hiện lời kêu gọi của Thủ tướng Chính phủ, mỗi doanh nhân Việt Nam là một chiến sĩ quả cảm, nỗ lực chiến thắng dịch bệnh, phát triển doanh nghiệp nói riêng và góp phần phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội đất nước nói chung.

Doanh nhân Việt Nam nguyện tiếp tục gương mẫu, thượng tôn pháp luật, phát triển sản xuất, kinh doanh; bảo vệ môi trường; thực hiện trách nhiệm xã hội, đạo đức doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp; trên hết là tinh thần yêu nước, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

Thủ tướng Phạm Minh Chính với các doanh nhân tiêu biểu

Phát biểu tại lễ kỷ niệm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính bày tỏ phấn khởi và niềm tin cùng cả nước và đội ngũ doanh nhân về những kết quả phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong bối cảnh khu vực và thế giới còn nhiều khó khăn thời gian qua, nhất là kết quả rất tích cực của 9 tháng năm 2022.

Thủ tướng chỉ rõ, trong 2 năm qua, trước diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ của tình hình thế giới và khu vực, chúng ta vẫn duy trì ổn định vĩ mô; kiểm soát được lạm phát; các cân đối lớn được bảo đảm; tình hình kinh tế - xã hội nước ta khởi sắc trên hầu hết các lĩnh vực, nhiều chỉ số vượt kế hoạch đề ra: GDP quý III tăng cao 13,67%; 9 tháng đầu năm tăng 8,83%; các ngành, lĩnh vực kinh tế đều phục hồi, có bước phát triển mạnh; số doanh nghiệp thành lập mới và trở lại hoạt động trong 9 tháng là trên 163 nghìn, gấp 1,44 lần số doanh nghiệp rút lui; xuất siêu hơn 6,5 tỷ USD. Cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh được chú trọng. An sinh xã hội, trật tự an toàn được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được giữ vững; đối ngoại được đẩy mạnh, xử lý hài hòa, phù hợp...

Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, những kết quả đạt được là do sự lãnh đạo sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng các quyết sách quan trọng của Nhà nước; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự tham gia vào cuộc tích cực, hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể nhân dân; sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị cùng sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế.

Đặc biệt có sự đồng lòng, ủng hộ, tham gia tích cực của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp doanh nhân Việt Nam - những chiến sĩ trên mặt trận kinh tế, tỏa sáng truyền thống “Tâm-Tài-Trí-Tín” của doanh nhân Việt Nam, kiên cường đồng hành cùng đất nước vượt qua khó khăn, thử thách và tận dụng thời cơ, thuận lợi để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả trong tình hình mới.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm và đánh giá cao vai trò của đội ngũ doanh nhân và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam; khẳng định đây là lực lượng sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam, đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước qua các thời kỳ lịch sử của Cách mạng Việt Nam.

Theo Thủ tướng, nhờ quan điểm và đường lối đúng đắn trong xây dựng, phát triển đất nước và đội ngũ doanh nhân “... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay...” như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nói. Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ tư của ASEAN và thứ 40 của thế giới, quy mô thương mại quốc tế nằm trong TOP 20 của thế giới, là một trong những nền kinh tế được đánh giá là năng động và có độ mở cao nhất thế giới.

Đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã có những đóng góp to lớn, quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện; là lực lượng chủ lực, tiên phong tạo ra nhiều công ăn việc làm, sinh kế cho người lao động, qua đó góp phần xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế-xã hội.

Thủ tướng Phạm Minh Chính trao tặng danh hiệu tôn vinh các doanh nhân được vinh danh Top 10 Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu nhất

Thủ tướng cho biết, hiện nay Việt Nam có hơn 900 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, khoảng 14,4 nghìn hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Đội ngũ doanh nhân cả nước đến nay đã lên đến hàng triệu người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về số lượng, doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng phát triển và nâng cao về nguồn vốn, doanh thu, lợi nhuận, hiệu quả sử dụng lao động; thể hiện vai trò là lực lượng chủ lực quản lý, tổ chức các nguồn lực sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

Khu vực doanh nghiệp đóng góp trên 60% GDP, khoảng 30% tổng số lao động đang làm việc. Các doanh nghiệp, doanh nhân có mặt ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, hoạt động không chỉ trong nước, mà nhiều doanh nghiệp, doanh nhân đã gây được tiếng vang, khẳng định giá trị thương hiệu vươn tầm khu vực và thế giới… Bên cạnh đó, có những doanh nhân lọt vào nhóm các "tỷ phú USD" và xuất hiện một lực lượng doanh nhân trẻ, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, khởi nghiệp thành công các mô hình kinh doanh mới, sáng tạo.

Đội ngũ doanh nhân cũng luôn thể hiện trách nhiệm xã hội, nhiều doanh nhân đã và đang tích cực tham gia các chương trình xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chương trình vì cộng đồng, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, gắn bó hơn “sỹ, nông, công, thương”, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đặc biệt, khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, đội ngũ doanh nghiệp nêu cao tinh thần chia sẻ, đồng hành cùng đất nước, vượt qua khó khăn, tự lực, tự cường, hỗ trợ lẫn nhau, nỗ lực thích ứng linh hoạt để duy trì sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động. Phát huy truyền thống “chia ngọt, sẻ bùi”, “tương thân, tương ái”, cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp có nhiều hoạt động hỗ trợ người dân, cộng đồng, đóng góp lớn vào Quỹ vaccine phòng COVID-19 và ủng hộ vật tư, trang thiết bị y tế cho các địa phương, thể hiện tinh thần trách nhiệm, nghĩa cử cao đẹp của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam với đất nước, với nhân dân.

Theo Thủ tướng, Đại hội XIII của Đảng đặt ra những mục tiêu và khát vọng phát triển đất nước đến năm 2025 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đại hội XIII cũng đã đề ra nhiệm vụ: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi…” và đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60-65%.

Sau khi phân tích, dự báo tình hình trong thời gian tới, Thủ tướng cho biết, Chính phủ sẽ tiếp sức cùng với đội ngũ doanh nhân, cộng đồng doanh nghiệp không ngừng phát triển cả về lượng và chất, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trên tinh thần bình đẳng, cùng phát triển, cùng có lợi, cùng có trách nhiệm với xã hội, người lao động, bảo vệ môi trường; cân đối, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.

Chính phủ tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đi đôi với xây dựng bộ máy hoạt động tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp và sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, Chính phủ tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế theo hướng bảo đảm ổn định trong điều kiện có nhiều bất định; chủ động thích ứng linh hoạt, hiệu quả trước những diễn biến phức tạp, khó lường; kiên định, nhất quán, bản lĩnh, tự tin trong điều hành trước sự biến động, tác động nhiều chiều từ thế giới và trong nước; có biện pháp kiểm soát rủi ro, ứng phó kịp thời với nguy cơ suy thoái, khủng hoảng từ bên ngoài; giải quyết hài hòa giữa hợp tác và cạnh tranh kinh tế quốc tế trong điều kiện hội nhập sâu rộng.

Theo đó, điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp, hướng tín dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp.

Cùng với đó, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phù hợp bối cảnh, tình hình mới; loại bỏ những quy định không còn phù hợp; thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số.

Người đứng đầu Chính phủ chỉ rõ, Chính phủ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực phát triển; tạo điều kiện để khu vực kinh tế ngoài nhà nước tham gia thực hiện các dự án, công trình, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội theo hình thức hợp tác công-tư; khơi dậy nội lực, khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nước, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin, hình thành các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế, bảo đảm chất lượng, quy định về truy xuất nguồn gốc...

Thủ tướng Chính phủ mong muốn cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam tiếp tục trau dồi bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức người kinh doanh; hoạt động sản xuất kinh doanh, tuân thủ đúng pháp luật, quy định của Nhà nước; thể hiện mạnh mẽ vai trò xung kích, chiến sĩ đi đầu trên mặt trận phát triển kinh tế-xã hội; chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với phát triển theo kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.

Thủ tướng nhấn mạnh, cộng đồng doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị tốt các nguồn lực để đón nhận, tạo đột phá cho phát triển doanh nghiệp, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc; thực hiện đầy đủ quyền lợi cho người lao động, đầu tư cho ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tiếp tục thể hiện trách nhiệm xã hội, tích cực tham gia các chương trình xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chương trình vì cộng đồng, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thủ tướng yêu cầu VCCI phát huy truyền thống gần 60 năm xây dựng và trưởng thành, đồng hành cùng Chính phủ và cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam, không ngừng nỗ lực, đổi mới sáng tạo, phát huy tốt vai trò là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân, người sử dụng lao động và các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam.

Các bộ, ngành, địa phương và hiệp hội doanh nghiệp phát huy hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, vai trò trong hỗ trợ doanh nghiệp thành viên, đẩy mạnh các hoạt động kết nối, giúp đỡ, cùng vượt qua khó khăn, thích ứng với giai đoạn mới.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng, với bản lĩnh, trí tuệ, tài năng, khả năng sáng tạo, thích ứng, tầm nhìn, khát khao vươn lên, tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, Đảng, Nhà nước, Chính phủ cùng cộng đồng doanh nghiệp sẽ vượt qua khó khăn, thách thức, đưa đất nước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững.

Chủ tịch Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp Nguyễn Hoàng Anh trao tặng danh hiệu tôn vinh các doanh nhân Việt Nam tiêu biểu

Tại Lễ kỷ niệm, Ban Tổ chức đã tôn vinh và trao tặng danh hiệu doanh nhân Việt Nam tiêu biểu năm 2022 cho 60 doanh nhân. Những doanh nghiệp này năm 2021 có doanh thu trên 1,2 triệu tỷ đồng, vốn chủ sở hữu trên 722 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước gần 148 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế trên 70 nghìn tỷ đồng và số lao động trên 251 nghìn người.

Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trực tiếp trao tặng danh hiệu cho 10 doanh nhân Việt Nam tiêu biểu nhất gồm: Ông Lê Mạnh Hùng, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); ông Trần Bá Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Hải; Thiếu tướng Nguyễn Quốc Dũng, Tư lệnh Binh đoàn 11, Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thành An, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty 789; ông Vũ Văn Tiền, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Tập đoàn GELEXIMCO; bà Thái Hương, Chủ tịch Hội đồng chiến lược Công ty Cổ phần Thực phẩm Sữa TH; bà Nguyễn Thị Nga, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn BRG - BRG GROUP; ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Phú Thái Holdings; ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời; ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Điều hành Công ty Cổ phần Tập đoàn công nghệ CMC; ông Lý Ngọc Minh, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Trách nhiệm hữu hạn Minh Long l.

Nhân dịp này, Ban Tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp trao tặng 16 nhà cho người dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, vừa bị thiệt hại do mưa lũ vừa qua; trao 212 nhà đại đoàn kết cho các hộ nghèo, khó khăn về nhà ở trên toàn quốc.

Theo TTXVN

Cần bố trí ngân sách tăng lương cơ sở trong năm 2023

Bên cạnh điều chỉnh lương tối thiểu vùng tại doanh nghiệp, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ bố trí ngân sách tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức.

"Cần tính toán việc này trong năm 2023 vì suy cho cùng đó cũng là chi cho đầu tư phát triển, góp phần để kích cầu", Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nói tại phiên họp sáng 4/6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Phiên họp cho ý kiến về phương án sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi và kinh phí còn lại của ngân sách Trung ương năm 2021.

Theo ông Huệ, tại các phiên thảo luận của Quốc hội về tình hình kinh tế - xã hội, nhiều đại biểu đã đề xuất như trên. Trước đây, việc điều chỉnh tăng lương được thực hiện hàng năm, nhưng 3 năm qua chưa thực hiện được do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19. Trong khi đó, đời sống cán bộ, công chức, viên chức gặp nhiều khó khăn.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Ảnh: Quochoi.vn

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ. Ảnh: Quochoi.vn

Lần điều chỉnh tăng lương cơ sở áp dụng với cán bộ, công chức, viên chức gần nhất là từ 1/7/2019, tăng từ 1,39 triệu đồng lên 1,49 triệu đồng. Theo đó, công chức trình độ đại học mới đi làm (hưởng lương bậc 1 với hệ số 2,34) sẽ nhận lương 3.486.600 đồng.

Theo Nghị quyết 27 năm 2018 của Trung ương, việc cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang dự kiến thực hiện vào tháng 7/2021. Tuy nhiên trong bối cảnh đại dịch kéo dài, chủ trương này liên tục phải lùi. Tháng 11/2021, Quốc hội đồng ý lùi thời điểm cải cách chính sách tiền lương; đồng thời, chưa nâng lương cho người thu nhập thấp, mới đi làm trong năm 2022; ưu tiên điều chỉnh lương hưu cho người nghỉ hưu trước năm 1995.

Tuy vậy, cải cách tiền lương là "chủ trương lớn, mang tính đột phá" nên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ khẩn trương xây dựng phương án, chuẩn bị nguồn lực, sớm trình Quốc hội quyết định cải cách chính sách tiền lương vào thời điểm thích hợp.

Mức lương cơ sở được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương, phụ cấp và người lao động làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội... được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động ở trung ương, ở cấp tỉnh, huyện, xã, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và lực lượng vũ trang. Mức lương cơ sở cũng được dùng làm căn cứ để điều chỉnh lương hưu.

Mức lương này không áp dụng với người lao động trong doanh nghiệp. Lương của nhóm đối tượng này tính toán trên cơ sở lương tối thiểu vùng.

                                                                                 Nguồn:vnexpress 
Thơ ông hay, phải cái tính ông hơi cục

Chuyện rằng, trong cãi vã, tranh luận học thuật, Chế Lan Viên nổi tiếng là hay có những phát biểu nặng lời và "không chừa người nào". Đến mức lành hiền, điềm đạm như nhà văn Bùi Hiển, vậy mà trong một hồi ký nhắc lại những ngày sống và làm việc bên cạnh Chế Lan Viên, ông vẫn phải chua thêm một câu "có lúc chúng tôi cũng hơi nổi nóng với nhau".

Với bác Tú Mỡ (trên Chế Lan Viên tới 20 tuổi), trên diễn đàn văn học, Chế Lan Viên cũng có lúc gay gắt, không chịu nhún nhường. Nhà thơ Ngô Văn Phú kể: Lần ấy, Ban Chấp hành Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam tổ chức một cuộc hội thảo về thơ trào phúng.
Tại cuộc hội thảo này đã nổ ra tranh luận giữa Chế Lan Viên và Tú Mỡ. Theo quan điểm của Chế Lan Viên thì thơ trào phúng có hai dòng: Một dòng trào phúng kiểu Tú Xương, Tú Mỡ và một dòng trào phúng trữ tình kiểu Maiacốpxki, Aragông.
Tú Mỡ thì lại cho rằng, trào phúng phải mang được cốt cách dân tộc, và "trào phúng Tây thì chưa chắc đã được thích bằng trào phúng ta". Chuyện có vậy mà rốt cục Chế Lan Viên nóng nảy, "dỗi" bỏ hội nghị ra ngoài. Nhà phê bình Hoài Thanh là người chủ trì hội nghị phải chạy theo dàn hòa mãi, Chế Lan Viên mới chịu trở vào.
Với bậc đàn anh Tú Mỡ, Chế Lan Viên nóng nảy vậy, mà với lão nhà văn Phan Khôi, người trên Chế Lan Viên tới 33 tuổi, khi vấp nhau về quan điểm, ông cũng quyết không… khoan nhượng.
Chế Lan Viên từng mắng cụ này là... "h.èn" khi thông qua người vợ đầu của nhà thơ, cụ đánh tiếng khuyên Chế Lan Viên nên giữ thái độ "trung lập" (điều này đã được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ghi lại trong nhật ký ngày 2/9/1956).
Thừa nhận cha mình là "nóng tính", trong bài viết có tên gọi "Cha tôi", nữ văn sĩ Phan Thị Vàng Anh đã kể lại một cảnh hiếm hoi cả gia đình chị cùng ra vườn ngắm trăng: "Chỉ những đêm rằm, vườn nhà tôi đầy trăng, cha bảo: "Tắt đèn, ra ngoài hè ngồi xem". Chị em tôi theo ra, ngồi khen trăng được vài phút, cha lại quay sang bàn chuyện văn với mẹ, rồi tranh luận... có khi cãi cọ, quên cả trăng".
Bản thân Chế Lan Viên, trước khi giã biệt cuộc đời cũng nói có nhiều người không ưa mình. Tuy nhiên, nói như một nhà thơ thì tổng kết lại, số người yêu Chế Lan Viên vẫn đông hơn nhiều những người th.ù gh.ét ông, nhất là với sự nghiệp thơ đồ sộ đáng kính nể mà ông để lại. Chi tiết về cuộc đời ông đọc thêm dưới cmt nhé các bạn!
HỒ XUÂN HƯƠNG 

Hồ Xuân Hương (1772 – 1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Bà không chỉ được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm, mà qua một số giai thoại, ta còn thấy rằng Hồ Xuân Dương xứng đáng được mệnh danh là Bà chúa cà khịa 🐧

1. Cà khịa quan

Một buổi sáng, Hồ Xuân Hương cùng chị em phụ nữ đang giặt quần áo ở một bến nước ven hồ Tây. Bỗng, trên con đường cái gần chỗ ấy, có một đoàn người (quan và lính) đi qua. Đây là đoàn người mà vị quan chỉ giữ một chức vụ không lớn trong triều đình; song lại thích có “tiền hô hậu ủng” (lính đi trước kiệu quan loa báo dẹp đường, lính đi sau kiệu quan cầm giáo bảo vệ). Toàn thể chị em đều đứng dậy nghiêm trang, im lặng, ngừng việc giặt giũ. Riêng Hồ Xuân Hương tỏ vẻ không hề hay biết, vẫn ch.ổng m.ông, cúi khom người, tay vỗ đôm đốp vào đống váy, áo đã ngâm nước. Thấy vậy, vị quan cho dừng kiệu, rồi sai lính xuống gọi Hồ Xuân Hương lên để trị tội “phạm thượng”. Nhưng, biết Hồ Xuân Hương là người quen, lại là nhà thơ, nên vị quan ấy chỉ ra lệnh cho Bà đọc thơ để chuộc lỗi. Suy nghĩ chốc lát, Hồ Xuân Hương thong thả đọc hai câu thơ Nôm theo thể thất ngôn đường luật:

Võng đào ông lớn đi trên ấy,

Váy đụp bà con vỗ dưới này.

Biết không thể “trị tội” được Hồ Xuân Hương, vị quan đã giục quân lính đi ngay. Hồ Xuân Hương và chị em được một bữa cười nói hả hê, vui vẻ.

2. Cà khịa Nguyễn Ánh

Sau khi lên ngôi và tiến ra Bắc Hà, đặt quan chức mới củng cố ngai vàng, Nguyễn Ánh cho dân chúng treo đèn kết hoa, chào mừng tân triều.

Khi một viên quan khâm sai được lệnh đi công tác ở các tỉnh, quan chức Thăng Long cũng dựng cổng chào và đến xin câu đối của Hồ Xuân Hương. Bà đã cho câu đối:

Thiên tử tinh kỳ đương bản diện,

Tướng quân thanh thế áp tam thùy.

Câu này theo nghĩa hay ho có nghĩa là:

Vế 1: cờ xí của nhà vua đăng đầy khắp chốn, quá uy danh đến nỗi che hết nửa mặt người.

Vế 2: Uy danh của vị tướng khâm sai cũng rất lớn, bao trùm cả 3 cõi.

Những tưởng câu này nghe rất hay, nhưng sau khi ngẫm nghĩ kỹ, người dân và quan binh đã hiểu ý nghĩa của câu đối theo một hướng hoàn toàn khác:

Vế 1: Cờ của vua Gia Long che nửa mặt người - câu này quá bình thường, chẳng có gì là khen vua cả vì cờ lệnh của hoàng đế đúng là một nửa (cờ hình tam giác).

Vế 2: Uy danh của vị tướng khâm sai bao trùm cả 3 cõi - câu này 100% là chê, Vì trước đó, trong bài thơ vịnh cái quạt, bà đã dùng "3 cõi" này để mô tả cái quạt bị méo, dù banh ra cỡ nào cũng không che đủ bốn góc, cũng giống như uy danh tướng khâm sai dù đi công tác khắp các tỉnh cũng chưa đủ bao trùm cả nước.

3. Cà khịa chú Khách

Có một chú Khách (tức là chàng trai người Trung Quốc ở vùng Quảng Đông, Quảng Tây) chạy loạn sang Việt Nam, làm nghề bán kẹo lạc đường. Biết tiếng văn chương tài giỏi của Hồ Xuân Hương, bèn tìm đến Cổ Nguyệt đường (nhà Hồ Xuân Hương ven hồ Tây) để làm quen, tán tỉnh với ý đồ lấy làm vợ. Hồ Xuân Hương không muốn tiếp chuyện anh chàng này, đã ra vế xướng và thách đối với điều kiện: nếu đối được thì sẽ tiếp tục ngồi chơi, nếu không đối được thì phải ra khỏi nhà ngay lập tức. Vế xướng của Hồ Xuân Hương như sau:

Chân đi hài hán, tay bán bánh đường, miệng nói líu lường, ngây ngô ngây ngố.

Vế xướng của Hồ Xuân Hương có nghệ thuật chơi chữ ở chỗ kết hợp một số động từ (đi, bán, nói) với một số danh từ, tính từ vừa thể hiện rõ nguồn gốc, nghề nghiệp, phong thái bất thường của chú Khách, vừa chỉ tên gọi một số triều đại phong kiến nổi tiếng của Trung Quốc: Hán - Đường - Ngô. Chú Khách ấy không đối được, đành phải bước ra khỏi Cổ Nguyệt đường.
VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA BỊ NÉM B.OM NHIỀU NHẤT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Trong ảnh là Bản đồ ném bo.m của Mỹ ở Đông Nam Á và 3 nước Đông Dương trong chiến tranh Việt Nam. Mỗi chấm đen là b.om nặng 1000 Pounds, tương đương 453 kg.
Tổng số b.om mà Mỹ đã ném xuống Việt Nam là 7,85 triệu tấn, gấp gần 3 lần tổng số b.om mà tất cả các nước đã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tương đương sức công phá của 250 quả b.om ng.uyên t.ử mà Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki; bình quân, mỗi người dân Việt Nam vào thời điểm đó phải chịu đựng trên dưới 250 kg b.om của Mỹ, trong cái gọi là "chính sách lunarization" (Mặt Trăng hóa). Nếu tính cả b.om đ.ạn dùng trên mặt đất (lự.u đ.ạn, m.ìn, đ.ạn ph.áo, chất n.ổ...) thì Mỹ đã dùng tổng cộng trên 15,35 triệu tấn b.om đ.ạn ở Việt Nam.
Đó là chưa kể tới 45.260 tấn (khoảng 75 triệu lít) chất độc hóa học được Mỹ rải xuống Việt Nam, mà đến nay, sau gần nửa thế kỷ, trẻ em sinh ra trên đất nước xinh đẹp hình chữ S này vẫn còn mang di chứng.
Hậu quả của lượng b.om m.ìn từ chiến tranh đến nay nước ta vẫn chưa thể khắc phục được hết. Gần 800.000 tấn bo.m m.ìn chưa phát n.ổ còn sót lại trong lòng đất vẫn tiếp tục gây tai nạn, làm hơn 42.000 người c.h.ết, 62.000 người bị thương từ 1975 đến 2014. Những năm gần đây, số nạn nhân b.om m.ìn vẫn là trên dưới 50 người mỗi năm. Diện tích đất bị ô nhiễm b.om m.ìn sau hàng chục năm khắc phục mới giảm từ 6,6 triệu ha (chiếm 20% diện tích Việt Nam) xuống còn 5,6 triệu ha (chiếm 17,71% diện tích), gây ra nhiều khó khăn, cản trở trong sản xuất và đời sống của người dân; khiến Chính phủ phải chi khoảng 100 triệu USD để khắc phục hậu quả b.om m.ìn mỗi năm.
 
 
Đây chính là lời nhắc nhở đối với thế hệ hôm nay và mai sau về sự t.àn á.c của chiến tr.anh và cái giá của hoà bình, độc lập, thống nhất. Nó cũng chính là minh chứng điển hình nhất cho sự ch.à đ.ạp lên nhân quyền mà Mỹ đã từng đối xử với Việt Nam./.

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG CỔ THÀNH - THÀNH PHỐ CHÍ LINH

Trưởng Ban Biên tập: Ông Vũ Văn Cường- Chủ tịch UBND phường

Địa chỉ: UBND phường Cổ Thành, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương

Điện thoại: 02203582265

Email: 

 
Số lượt truy cập
Đang truy cập: 0
Hôm nay: 5
Tất cả: 59,578